4/10/10

CHUYỆN TÌNH LÝ QUANG DIỆU









Chuyện tình Lý Quang Diệu - Kỳ 1: Chỉ có cái chết mới chia lìa lứa đôi 
 
Theo: http://www.thanhnien.com.vn 

Ông bà Lý Quang Diệu và Kha Ngọc Chi mừng sinh nhật thứ 80 của ông Lý vào năm 2003 -  Ảnh: Straits Times
Luôn nép mình sau chồng, người tình trọn đời của ông Lý Quang Diệu, bà Kha Ngọc Chi, được ghi nhận “có đóng góp to lớn cho đất nước” trong vai trò một nội tướng thâm hậu. Đương kim Thủ tướng Singapore Lý Hiển Long là kết quả tình yêu của họ.
Trang nhất tờ Straits Times số hôm qua không có tin nào khác ngoài bài Vĩnh biệt bà Lý, phu nhân ông Lý Quang Diệu, thủ tướng đầu tiên của Cộng hòa Singapore.
12.5.2008 là một ngày tôi nhớ mãi. Hôm đó, cha con ông Lý Quang Diệu và đương kim Thủ tướng Lý Hiển Long ra tòa án đối chất với Chủ tịch đảng Dân chủ Singapore đối lập Chee Soon Juan, trong vụ kiện xúc phạm danh dự mà cha con ông Lý là nguyên đơn. Đây là một sự kiện cột mốc trong lịch sử Singapore. Cánh phóng viên nước ngoài như tôi có mặt tại phiên tòa từ sáng sớm. Nhưng đến 6 giờ chiều cha con ông Lý vẫn không đến.
Về sau mới có tin, hôm đó vợ ông Lý, bà Kha Ngọc Chi, bị một loạt những cơn đột quỵ gây xuất huyết não. Kể từ đó, bà nằm liệt giường, không nói được, dù vẫn còn tri giác. Có lẽ sự biến đó đã khiến cha con ông Lý không đến tòa theo kế hoạch.

Tuổi già nước mắt như sương
Con gái ông Lý, bác sĩ Lý Vỹ Linh trong bài xã luận My dear Mama (Người mẹ yêu quý của tôi) đăng trên báo Straits Times hôm 29.8 vừa qua có đoạn: “Nhưng tôi không thể làm được gì để giúp mẹ trở lại như trước khi bà bị cơn đột quỵ khủng khiếp quật ngã vào ngày 12.5.2008. Từ đó đến nay, bà vật vã liệt giường… Người đau khổ nhất và lặng lẽ chịu đựng mỗi ngày chính là ba tôi”.
Hồi năm 2009, bà Lý Vỹ Linh cũng viết một bài khác kể rằng, khi mẹ bà lâm cảnh “chân mỏi tay run”, mỗi bữa cơm ông Lý ngồi bên cạnh, nhặt từng hạt cơm bà đánh rơi, bỏ vào chén mình, ăn ngon lành.
Trong cuộc phỏng vấn hồi đầu tháng 9 năm nay với nhà báo Seth Mydans của tờ New York Times, ông Lý lần đầu tiên kể về tình trạng của vợ mình: “Bà ấy nằm tại nhà và được các y tá chăm sóc. Trước đây, chúng tôi ở chung phòng, nay thì tôi chuyển sang phòng kế bên. Tôi đã quen với âm thanh khò khè và tiếng rên mỗi khi cổ họng bà ấy bị khô và người ta phải bơm chất Biothene vào để hút đàm ra. Thật là đau đớn”, ông Lý buồn bã.

Hôm 29.9, ngay trước kỷ niệm 60 năm ngày cưới chính thức, ông Lý Quang Diệu phải nhập viện vì viêm phổi. Và 5 giờ 40 phút chiều 2.10, bà Kha Ngọc Chi trút hơi thở cuối cùng tại nhà bên cạnh con gái Vỹ Linh. Lúc đó, ông Lý vẫn nằm trong bệnh viện, con trai út Hiển Dương đến thăm mẹ buổi sáng và đã ra về; con trai cả, Thủ tướng Lý Hiển Long, thì vừa đến thành phố Antwerp, để dự Hội nghị Á-Âu (ASEM8). Thủ tướng Lý đã bay về nước ngay trong đêm.

Chọn cho bà một sự ra đi nhẹ nhàng hay cứ tồn tại trong đớn đau là điều luôn dằn vặt ông: “Tôi có thể đuổi hết các y tá. Khi đó những người giúp việc không biết cách làm cho bà ấy thở được… và kết thúc mọi đau đớn”. Nhưng, “một bác sĩ nói với tôi: Có thể ông nghĩ mình sẽ thấy nhẹ nhàng hơn khi bà ấy ra đi, nhưng rồi ông sẽ buồn và cảm thấy trống vắng. Vì ít ra, bà vẫn là một con người ở đây, một người mà hằng ngày ông có thể trò chuyện cùng và hiểu được những gì ông nói”.
Ông Lý đồng tình với lời khuyên đó: “Đã 2 năm, rồi tháng 5, tháng 6, tháng 7, tháng 8, tháng 9, tổng cộng là 2 năm 4 tháng. Điều đó đã trở thành một phần trong cuộc sống của tôi”. Và ông nói chỉ có thể làm những gì tốt nhất cho bà cảm thấy dễ chịu mà thôi, như là tìm những y tá giỏi, biết cách đỡ bà ngồi và xoa bóp cho bà; trang bị giường bệnh viện có túi hơi, để lưng bà không bị lở loét.

Vẫn đẹp như ngày đầu
Nhưng ông Lý không để nỗi đau quật ngã mình: “Tôi phải làm gì? Tôi không thể ngã quỵ. Cuộc sống phải tiếp diễn. Tôi cố làm cho mình bận rộn suốt ngày”. Dù ở tuổi 87, ông Lý vẫn giữ chức Bộ trưởng Cố vấn trong nội các với lịch làm việc dày đặc các chuyến công du, đón tiếp chính khách, học giả nước ngoài, nói chuyện trước công chúng Singapore và thế giới.
Và hằng đêm, ông đến bên giường nói chuyện với người vợ yêu thương: “Tôi kể cho bà ấy nghe công việc tôi làm trong ngày và đọc những bài thơ mà bà ấy yêu thích. Bà ấy hiểu và cố thức để nghe tôi”. Kiêu hãnh và Định kiến, Lý trí và Tình cảm của Jane Austen, truyện thơ The Canterbury Tales của Geoffrey Chaucer, Kim của Rudyard Kipling, thơ Shakespeare… là những tác phẩm ông chọn đọc cho bà nghe. Thời trẻ, bà Chi học chuyên văn và đặc biệt yêu thích văn chương Anh.

“Thi thoảng trong những khoảnh khắc lặng yên, ký ức những ngày bên nhau đẹp đẽ lại trở về”, ông Lý tâm sự với Seth Mydans. “Con gái tôi vừa tìm được hàng chục bức ảnh cũ và ảnh kỹ thuật số lưu trữ tại Tập đoàn báo chí Singapore Press Holdings. Khi tôi nhìn lại chúng, tôi nghĩ mình may mắn làm sao. Tôi đã có 61 năm hạnh phúc bên bà ấy. Chúng tôi rồi sẽ phải ra đi. Tôi không chắc ai sẽ ra đi trước, bà ấy hay là tôi. Vì vậy tôi nói với bà ấy, rằng tôi đang nhẩm lại lời nguyền lứa đôi của tín đồ Cơ đốc giáo. Tôi nhớ nó thế này: Hãy yêu, gìn giữ và vun đắp, trong đau ốm hay khỏe vui, lúc thuận lợi, khi khó khăn, chỉ có cái chết mới chia lìa chúng ta”. (Còn tiếp)
Thục Minh
(Văn phòng Singapore)

Chuyện tình Lý Quang Diệu - Kỳ 2: Mấy núi cũng trèo 
 
Lý Quang Diệu và Kha Ngọc Chi trong những ngày ở Anh - Ảnh: tư liệu của ông Lý Quang Diệu do báo Straits Times thu thập
Lý Quang Diệu chỉ có một người yêu duy nhất, Kha Ngọc Chi, nữ sinh con nhà giàu học giỏi nhất Đại học Raffles cách đây 2/3 thế kỷ.
Từ đối thủ thành ý trung nhân
Năm 1940, Thế chiến 2 lan khắp châu Âu, ước mơ sang Anh du học của các học sinh thuộc địa như Lý Quang Diệu tạm gián đoạn. Ông nhận học bổng Anderson danh giá nhất nước và theo học luật tại Đại học Raffles. Cuối học kỳ đầu tiên của năm nhất, ông xếp đầu trường về môn toán. “Nhưng tôi bàng hoàng nhận ra rằng tôi không chiếm vị trí số 1 cả môn tiếng Anh lẫn môn kinh tế. Tôi xếp sau một cô tên Kha Ngọc Chi. Tôi thất vọng và cảm thấy khó chịu”, ông Lý kể trong hồi ký Câu chuyện Singapore: 1923 - 1965 xuất bản năm 1998. “Tôi đã gặp cô Kha hồi năm 1939. Bấy giờ cô ấy là nữ sinh duy nhất ở trường Trung học Raffles toàn con trai. Cô Kha được hiệu trưởng mời phát phần thưởng cuối năm cho các học sinh giỏi. Lần đó, tôi nhận được từ tay cô ấy 3 quyển sách”, ông viết trong hồi ký.
Rồi cuộc chiếm đóng của người Nhật ở Singapore ập đến vào đầu năm 1942. Trường lớp đóng cửa. Bà Kha Ngọc Chi về nhà phụ giúp gia đình. Lý Quang Diệu, con cả trong một gia đình có 4 trai 1 gái, đi làm công, rồi lao ra chợ đen buôn đủ thứ: rượu ngoại, thuốc lá, nữ trang... Ở chợ đen, anh gặp Yong Nyuk Lin, một cựu sinh viên ở Đại học Raffles và hùn hạp với người này mở xưởng sản xuất hồ dán. Tựa như duyên trời định, em vợ ông Yong chính là cô Kha Ngọc Chi và qua tiếp xúc, tình cảm đầu đời giữa họ đã nảy sinh.
“Tháng 9.1944, chúng tôi đã trở nên đủ gần gũi để tôi mời Nyuk Lin, vợ anh ta và Ngọc Chi (từ nay tôi gọi là Chi thôi) đi dự sinh nhật thứ 21 của tôi tại một nhà hàng Tàu ở khu Great World. Đó là lần đầu tiên tôi mời nàng ra ngoài”, ông Lý viết. Vào thời đó ở Singapore, một cô gái chấp nhận ra ngoài cùng một chàng trai, dẫu là có anh chị của cô đi cùng, thì điều đó không thể không mang một thông điệp nhất định!
Đám cưới bí mật ở Anh
Cuối năm 1945, Nhật rút khỏi Singapore, Ngọc Chi đi làm thủ thư ở Thư viện Raffles. Ngày ngày, Quang Diệu cuốc bộ đưa cô về nhà. Có lần, anh chở Chi về bằng xe máy, khiến mẹ cô nổi giận. Gia đình cô vốn giàu có, cha làm ngân hàng, ở nhà biệt thự và có xe hơi đưa rước đến trường hằng ngày. Vì thế, ngồi sau xe máy của một người đàn ông là điều không thể chấp nhận đối với một tiểu thư như cô. “Thiên hạ sẽ nghĩ sao? Ai mà dám lấy con chứ!”, mẹ cô la mắng.
Đêm giao thừa năm 1946, Quang Diệu thổ lộ với Ngọc Chi rằng anh không có ý định quay lại Đại học Raffles để hoàn thành chương trình cử nhân luật mà sẽ đi Anh du học, và hỏi cô có thể chờ anh 3 năm. “Chi hỏi tôi có biết Chi lớn hơn tôi hai tuổi rưỡi. Tôi nói rằng tôi biết và đã cân nhắc kỹ điều này. Khó lòng tìm được một người có cùng hoài bão với tôi như Chi. Chi nói sẽ chờ đợi tôi”, hồi ký viết. Nhưng họ quyết định không nói với cha mẹ hai bên, bởi “quá khó để các bậc cha mẹ đồng ý một sự hứa hẹn dài đằng đẵng như vậy”. Theo hồi ký Câu chuyện Singapore: 1923-1965, đúng vào sinh nhật thứ 23 của mình, ngày 16.9.1946, Quang Diệu bước lên con tàu Britannic, rời Singapore sang Anh. Ngọc Chi đứng trên bến cảng, nước mắt chảy dài, vẫy tay tạm biệt người yêu. Chàng trai Quang Diệu cũng không cầm được nước mắt. Vài tháng qua, họ đã quấn quýt bên nhau thật nhiều.
Cuối tháng 7.1947, tin vui từ Singapore bay sang Anh: Ngọc Chi đã giành được học bổng của nữ hoàng. Quang Diệu vui mừng khôn xiết trước viễn cảnh cùng người yêu ở Cambridge. Nhưng lúc ấy đã quá muộn để Ngọc Chi có thể tìm được trường vì đầu tháng 10 năm học mới sẽ bắt đầu. Quang Diệu vắt giò lên cổ chạy khắp Đại học Cambridge nhờ vả. Nhờ tài thuyết phục và lòng nhiệt thành của anh cộng với thành tích học tập sáng chói của Ngọc Chi, Hiệu trưởng trường Girton chấp nhận dành cho cô chiếc ghế dự phòng cho những trường hợp đặc biệt ở khoa luật. Đầu tháng 10, Ngọc Chi đến Liverpool, Quang Diệu đã chờ sẵn ở bến cảng tự bao giờ. Họ lên xe lửa về London, chơi ở đó 5 ngày, rồi xuôi về Cambridge.
Hạnh phúc được ở cạnh nhau nhưng họ cũng gặp phải những trở ngại. Quang Diệu “được” một giám thị nhắc nhở rằng trường Girton không ủng hộ chuyện sinh viên nhận học bổng kết hôn ngay khi đang học. Thế nhưng, đôi uyên ương vẫn quyết tâm kết hôn vào tháng 12.1947. “Chúng tôi quyết định lặng lẽ kết hôn vào dịp nghỉ lễ Giáng sinh, và giữ bí mật. Ba mẹ Ngọc Chi sẽ vô cùng thất vọng nếu chúng tôi xin phép họ. Trường Girton có thể sẽ phản đối. Hội đồng quản trị học bổng nữ hoàng có thể sẽ gây khó khăn”, cựu thủ tướng viết trong hồi ký. Trong kỳ nghỉ lễ, 2 người đi chơi tại Stratford-upon-Avon, quê hương đại văn hào William Shakespeare, và bí mật kết hôn sau khi thông báo cho nhân viên hộ tịch địa phương. “Trên đường, chúng tôi ghé London, tôi mua cho Chi một chiếc nhẫn bạch kim. Sau 2 tuần ở Stratford-upon-Avon, chúng tôi trở về Cambrigde, Chi treo nhẫn vào sợi dây chuyền đeo ở cổ”.
Mặc dù đã cưới nhau, 2 người vẫn “ai ở nhà nấy”, vẫn học hành chăm chỉ. “Vào cuối tuần và một vài buổi tối khác, tôi đạp xe lên trường Girton. Ngọc Chi nấu cho tôi những món ăn Singapore bằng cái bếp gas ở đầu hè”, ông viết. Họ tiếp tục như thế cho đến kỳ thi cuối cùng vào tháng 5.1949. Quang Diệu đoạt ngôi sao danh dự duy nhất cho những sinh viên tốt nghiệp xuất sắc của khóa học. Ngọc Chi cũng xuất sắc không kém. Họ gọi điện về Singapore báo cáo thành tích học tập cho gia đình, nhưng chuyện kết hôn thì vẫn giấu biệt. (Còn tiếp)

Chuyện tình Lý Quang Diệu - Kỳ 3: Đẹp duyên cưỡi rồng 
 
Khi ông Lý Quang Diệu chọn con đường chính trị và trở thành người đứng đầu đất nước, bà Kha Ngọc Chi cũng trở thành một nội tướng thâm hậu. 

Tháng 8.1950, sau khi hoàn thành khóa huấn luyện hành nghề luật sư, Quang Diệu và Ngọc Chi trở về Singapore. Tìm việc làm xong, anh đến nhà Ngọc Chi xin phép làm đám cưới. Cha Ngọc Chi đùng đùng nổi giận. Ông chờ đợi thân phụ của Quang Diệu đến ngỏ lời chứ không phải là một cậu thanh niên 27 tuổi. Nhưng cuối cùng, đám cưới chính thức của hai người cũng diễn ra tốt đẹp tại khách sạn Raffles vào ngày 30.9.1950. Ngày 10.2.1952, đứa con đầu lòng của họ ra đời. Lý Quang Diệu tham vấn một chuyên gia phiên dịch tại Tòa án tối cao Singapore để tìm cái tên hay nhất cho con. Vị này phán đứa bé ra đời vào ngày mầu nhiệm nhất trong năm theo lịch Trung Quốc - ngày thứ 15 của nguyệt kỳ đầu tiên trong năm con rồng. “Vì thế chúng tôi quyết định đặt tên con là Hiển Long, tức con rồng vinh hiển. Thằng bé đem lại cho chúng tôi niềm hạnh phúc vô biên”, ông Lý viết trong hồi ký. Sau đó, họ sinh thêm con gái Vỹ Linh (1955) và con trai út Hiển Dương (1957). Cả 3 đều học rất giỏi và thành đạt. Lý Hiển Long nay là đương kim Thủ tướng Singapore, Lý Vỹ Linh là bác sĩ thần kinh nhi nổi tiếng, còn Lý Hiển Dương là một doanh nhân thành công.

Tháng 9.1955, Lý Quang Diệu cùng vợ và em trai Lý Kim Diệu thành lập Công ty luật Lee & Lee do ông đứng đầu. Trước đó, cuối năm 1954, ông cùng các cựu du học sinh tại Anh thành lập Đảng Hành động nhân dân (PAP), ra tranh cử nghị viên và chính thức bước vào con đường chính trị. Tháng 6.1959, ông thắng cử và trở thành Thủ tướng Singapore, trao quyền điều hành công ty lại cho vợ và em trai. Qua hơn 6 thập niên, Lee & Lee hiện là một công ty tầm cỡ ở Singapore.

“Tòa tháp sức mạnh”
Trong tập hồi ký thứ hai Từ Thế giới thứ ba lên Thế giới thứ nhất - Câu chuyện Singapore: 1965 - 2000 xuất bản năm 2000, ông Lý viết: “Những người cộng sản khiến tôi có ấn tượng bởi sự quan trọng mà họ đặt vào người phụ nữ... Họ biết người vợ có ảnh hưởng lớn như thế nào đến sự dấn thân vì lý tưởng của chồng... Tôi thật sự may mắn. Chi chưa bao giờ nghi ngờ hay do dự về lý tưởng chiến đấu của tôi, bất chấp kết cục thế nào”.
Với ông Lý, bà Kha là chỗ dựa của gia đình: “Bởi tôi biết Chi có công việc của một luật sư. Nếu cần, bà ấy có thể tự lo cho mình và các con, nên tôi không phải lo lắng về tương lai của bọn trẻ”. Điều đó giúp ông toàn tâm toàn ý cho sự nghiệp chính trị của bản thân và tương lai của đất nước. Với các con, bà Kha là một người mẹ mẫu mực, tuyệt vời. Thủ tướng Lý Hiển Long từng kể trong nhiều cuộc nói chuyện trước công chúng: “Khi chúng tôi còn nhỏ, mẹ tôi là một luật sư bận rộn. Nhưng thay vì ăn trưa với khách hàng, hôm nào bà cũng về nhà ăn cơm với chúng tôi, chăm sóc và bảo ban anh em tôi chu đáo”.
Trong sự nghiệp chính trị của mình, ông Lý thừa nhận bà Kha là “một tòa tháp sức mạnh”. Suốt 31 năm ông làm thủ tướng (1959 -1990), vợ ông lặng lẽ hỗ trợ đắc lực trong quan hệ đối nội lẫn đối ngoại của ông: “Bà ấy giúp tôi hàng đống công việc, giúp tôi tiết kiệm được rất nhiều thời gian, như sửa bản thảo các bài diễn văn, sửa đề cương tôi sẽ trình trước Quốc hội hoặc trả lời phỏng vấn. Bà ấy quen thuộc với ngôn ngữ của tôi nên dễ dàng đoán ra từ ngữ tôi dùng mà các nhân viên tốc ký không thể lần ra được”.

Trong các chuyến công cán cùng chồng, bà Kha tiếp xúc với phu nhân của các chính khách mà ông Lý gặp gỡ. Sau đó, bà nhận định khá chính xác về vị chính khách thông qua cách hành xử và giao tiếp của vợ ông ta. Trong những lần thăm Trung Quốc, sau một ngày làm việc bận rộn, ông bà Lý trở về khách sạn và đem những cuốn băng ghi âm các cuộc tiếp xúc ra nghe lại. Khi đó, bà Kha giải thích cho chồng hàm ý trong từng từ ngữ, từng cử chỉ mà các lãnh đạo Trung Quốc thể hiện, bởi bà rất giỏi tiếng Hoa và hiểu sâu sắc văn hóa Trung Quốc.

Ông Lý cũng tiết lộ rằng, khi ông đàm phán để sáp nhập Singapore với Malaysia vào năm 1962, vợ ông đã dự cảm được một kết cục không như mong muốn, nhưng ông không nghe. Thực tế đã chứng minh bà đúng: Sau 2 năm nhập chung, ngày 9.8.1965, Singapore buộc phải tách khỏi Malaysia...

Bóng tà
Tôi gặp bà Kha Ngọc Chi lần duy nhất vào ngày 11.1.2008 tại Trung tâm hội nghị Suntec. Ở tuổi 87 và từng trải qua bao cơn bạo bệnh, bà vẫn theo chồng đến dự buổi đối thoại về tuổi già. Ngồi ở hàng ghế cử tọa, bà nhìn ông trên sân khấu và móm mém cười mỗi khi ông nhắc đến chuyện nhà. Đó có lẽ là lần cuối bà xuất hiện trước công chúng, trước khi ngã bệnh liệt giường sau đó đúng 4 tháng.

Bà Kha đã ra đi, ông Lý còn lại một mình. Trong cuộc đối thoại ngày 11.1.2008, ông Lý nói: “Mẹ tôi mất ở tuổi 74 vì đột quỵ. Ba tôi mất ở tuổi 94. Vì vậy, tôi tính toán mình có thể ra đi trong khoảng 74 đến 94 tuổi. Nhưng tôi đã qua cái hạn 74 rồi. Hạn tiếp theo sẽ là 87, ba tôi ngã bệnh ở tuổi đó”. Ông Lý vừa bước sang tuổi 87 được hơn nửa tháng.

Người dân Singapore đang lo lắng cho sức khỏe của ông Lý sau mất mát quá lớn. Đêm 4.10, sau khi khách viếng linh cữu bà Kha đã ra về hết, ông Lý bước từng bước chậm chạp đến bên bà. Gần như bất động, ông lặng nhìn bức ảnh đặt ở chân quan tài trong vòng chừng 1 phút, rồi quay đi. Trông ông yếu hơn hẳn hôm 1.10 khi tiếp Tổng giám đốc Hiệp hội hàng không quốc tế Giovanni Bisignani ngay tại Bệnh viện đa khoa Singapore.
Thục Minh
(Văn phòng Singapore)

30/9/10

THI GIẢI TOÁN TRÊN MẠNG TỪ LỚP 1 ĐẾN LỚP 9




Gần 2.400 học sinh thi giải Toán quốc gia trên mạng
Vượt qua 34 vòng thi cấp địa phương, các thí sinh xuất sắc của 47 tỉnh thành đã tham dự cuộc thi giải Toán ViOlympic trên mạng dành cho khối lớp 5 và lớp 9.



Ảnh: Mỵ Nguyễn.
Khai mạc kỳ thi Toán cấp quốc gia qua Internet tại Lào Cai. Ảnh: Mỵ Nguyễn.
Cơ cấu và quy chế xét giải cuộc thi đang được Bộ GD&ĐT thống nhất. Dự kiến ngày 19/5, kết quả sẽ được công bố trên website http://violympic.vn.
Sau khi thí sinh hoàn thành và ấn nút "Nộp bài", thời gian, số lần thi và điểm thi của mỗi thí sinh được hệ thống lưu tự động và báo ngay trên bảng thống kê.
Tham dự cuộc thi ngày 8/5 có 1.371 thí sinh khối 5 và 995 thí sinh khối 9 của 47 tỉnh thành, tăng gần 30% so với năm trước. Để tham dự, mỗi thí sinh phải vượt qua 34 vòng thi tự do và vòng thi do ban tổ chức tỉnh, thành phố tổ chức.
Anh: Mỵ Nguyễn.
Học sinh khối 9 của Hà Nội đang làm bài thi. Anh: Mỵ Nguyễn.
Ra đời chưa đầy 2 năm với kênh thi trực tuyến, nhưng với sự hấp dẫn, ViOlympic đã thu hút trên 1,7 triệu thành viên là phụ huynh, giáo viên, học sinh tiểu học và THCS trên toàn quốc.
Từng đi nhiều nước trên thế giới, TS Quách Tuấn Ngọc, Cục trưởng Cục Công nghệ thông tin (Bộ GD&ĐT) cho rằng, ViOlympic là cuộc thi hay và khác biệt nhất mà ông từng gặp.
Những năm tới, ViOlympic sẽ còn là kênh học tập Toán đắc lực cho học sinh THPT. Việc xây dựng phiên bản tiếng Anh, mở rộng cuộc thi giải Toán qua Internet cấp khu vực và quốc tế sẽ được triển khai trong tương lai gần.
Theo Bộ GD&ĐT, năm học 2009-2010 cả nước có hơn 6,8 triệu học sinh tiểu học và gần 6 triệu học sinh THCS.
ViOlympic là cuộc thi giải Toán trên mạng đầu tiên ở Việt Nam do Bộ GD&ĐT và tập đoàn FPT phối hợp tổ chức.
Năm 2009, ViOlympic nhận Giải thưởng Sao Khuê - giải thưởng của ngành công nghiệp phần mềm dành cho sản phẩm và giải pháp chuyên ngành giáo dục.
Năm 2010, ViOlympic nhận Giải thưởng Công nghệ Thông tin - Truyền thông Việt Nam 2009 (Vietnam ICT Awards 2009) do Bộ Thông tin và Truyền thông tổ chức dành cho sản phẩm sản phẩm, dịch vụ nội dung số mang tính văn hóa, giáo dục tốt nhất.

Link đăng ký tham gia : http://violympic.vn.

Mỵ Nguyễn

Thư gửi ĐD Trương Nghệ Mưu đoạt giải nhất Cuộc thi Viết thư Quốc tế UPU lần thứ 39

Đọc giọng văn trong bức thư gửi đạo diễn Trương Nghệ Mưu của cô bé học lớp 6, Trường THCS Tây Sơn (quận Hải Châu, TP Đà Nẵng) mình không thể tin được đây là những suy nghĩ của một cô bé vừa mới chập chững bước những bước đầu lên cấp 2. Từ đầu đến cuối, giọng văn có sức lôi cuốn đến lạ, khiến mình không thể dừng đọc những đoạn tiếp theo. Có lẽ vì thế mà bài văn này trở thành bài văn đầu tiên của thí sinh người Việt đoạt giải nhất cuộc thi Viết văn quốc tế do UPU (Liên minh Bưu chính Thế giới) tổ chức năm nay.
Tác giả nhí của giải thưởng 30 triệu đồng cùng nhiều tấm bằng khen này tên là Hồ Thị Hiếu Hiền. Có thể đối với giới chuyên môn làm phim thì những ý tưởng của Hiền chưa thực sự xuất sắc lắm, nhưng khi biết được đây chính là kiến thức và nguyện vọng của một cô nhóc 12, 13 tuổi chắc hẳn tâm hồn của bạn sẽ bị lay động mạnh. Bởi những gì nhóc phản ánh quá giống với sự thật nghiệt ngã và không phải người lớn nào cũng đủ sâu sắc để phản ánh đầy đủ như thế này đâu các bạn ạ.
Đây là bài dự thi của Hiền:

Đề bài: Hãy viết thư cho một người nào đó, để nói vì sao việc hiểu biết về AIDS và tự bảo vệ mình trước căn bệnh này  là rất quan trọng.

Đạo diễn Trương Nghệ Mưu kính mến!

Khi gửi lá thư này đi, cháu cứ mong từng ngày nó sớm đến được tay ông. Rồi cháu lại lo rằng khi nhìn thấy địa chỉ lạ hoắc: “Người gửi: Hồ Thị Hiếu Hiền - Việt Nam” không biết ông có giở thư ra đọc hay không? Ông ơi! Cháu mong ông bớt chút thì giờ vàng ngọc để lắng nghe tâm sự của cháu, biết đâu ông sẽ thấy trong đó một điều gì lớn lao hơn tình cảm thông thường của người hâm mộ dành cho thần tượng.

Thưa ông, cháu mới có ý định viết thư cho ông sau khi trường cháu phát động Cuộc thi Viết thư Quốc tế UPU lần thứ 39 về đề tài phòng chống căn bệnh AIDS. Để cho bài viết của mình có cơ sở thực tế, cháu đã đi tìm hiểu một số đối tượng xem mọi người hiểu biết và phòng chống AIDS như thế nào.

Đầu tiên, cháu hỏi bà, bà cháu bảo: “Bà sống từng này tuổi đầu rồi mà chưa biết mặt mũi con “Ết” nó thế nào. Bà nghe nói nó ở trong người những kẻ sống buông thả chẳng ra gì. Cháu đừng đến gần họ kẻo con “Ết” nó dính vào người.”  - Ôi, bà cháu chẳng hiểu gì về AIDS cả, ông nhỉ?

Khi nghe cháu hỏi, cả bố mẹ cháu đều cho rằng: “AIDS là căn bệnh suy giảm hệ miễn dịch ở cơ thể người do vi rút HIV gây ra. Bệnh này rất nguy hiểm vì hiện chưa có thuốc chữa khỏi. Con phải tuyệt đối tránh xa các tệ nạn như nghiện hút, tình dục bừa bãi thì mới bảo vệ được mình.”  Mẹ cháu còn dặn đi dặn lại: “Nếu ở lớp có bạn nào bị nhiễm HIV thì con phải nói ngay để bố mẹ xin chuyển trường, chuyển lớp cho con.” - Bố mẹ cháu là công chức mà cũng còn kì thị với người có H đấy.

Cháu lại hỏi cả em cháu, em quả quyết: “Lớp em thì chưa có bạn nào bị AIDS chứ nếu có, em sẽ đeo khẩu trang hoặc nghỉ học ở nhà luôn.” - Thật buồn cười, em lại tưởng AIDS cũng giống H1N1.

Đi đường, cháu có hỏi cô công nhân đang quét rác, cô liền chỉ tay vào mấy cái vỏ ống tiêm nằm lăn lóc bên vệ đường: ”Kia kìa, vi-rút HIV chứa trong những ống tiêm đó cháu!” - Hiểu biết của cô công nhân cũng chưa thật đầy đủ phải không ông?

Đến lúc vào nhà hàng ăn uống, cháu lại gợi chuyện ông chủ. Ông ta nhanh nhảu: “ Si-đa à? Cứ nhìn người nào ốm yếu, đi đứng dặt dẹo, trên người nổi nhiều mụn nhọt là đích thị rồi! Cháu đừng lo, ông không bao giờ để cho họ vào ăn uống làm lây bệnh cho khách.” - Trời, thật tội nghiệp cho những ai không có H nhưng lại có vẻ bề ngoài giống như ông ấy tả. Ông ấy đâu biết rằng HIV không hề lây qua đường ăn uống hay giao tiếp thông thường và hiện nay chúng ta đang sống chung với AIDS.

Khi đến lớp, cháu cũng trao đổi với các bạn nhưng nhiều bạn lại tỏ ra rất thờ ơ, cho rằng việc phòng chống HIV/AIDS là việc của các cơ quan y tế, lớp mình có ai bị AIDS đâu mà lo! -  Thái độ của các bạn cháu cứ bàng quan như thế chả trách mỗi ngày có tới một ngàn trẻ em dưới mười lăm tuổi bị nhiễm HIV.

Cháu còn điều tra thêm một số trường hợp nữa nhưng hầu hết ai cũng rất lơ là. Cháu thực sự lo ngại trước thực trạng này và muốn viết một bức thư kêu gọi mọi người hãy nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi để phòng chống được căn bệnh này. Thế nhưng đã mấy hôm nay, cháu ngồi nghĩ mãi mà không biết viết thế nào, đành gác bút ra xem ti vi. Lúc này trên kênh truyền hình đang chiếu bộ phim “Hoàng Kim Giáp” do ông đạo diễn. Bộ phim hay quá! Thảo nào, cháu thấy người ta ca ngợi ông rất nhiều trên mạng. Bằng một loạt phim nổi tiếng thế giới như: Cao lương đỏ, Phải sống, Cúc Đậu, Đèn lồng đỏ treo cao, Thập diện mai phục, Hoàng Kim Giáp…, ông đã chinh phục được trái tim của tất cả mọi người.

Đột nhiên, một ý nghĩ vụt lóe lên trong cháu: ước gì cháu cũng có tài làm phim như ông nhỉ? Cháu sẽ xây dựng ngay những tác phẩm điện ảnh thật hay về đề tài HIV/AIDS để thức tỉnh loài người. Ông ạ, bộ phim đầu tay của cháu sẽ là câu chuyện đầy cảm động về một mối tình lãng mạn và bi ai: chàng và nàng yêu nhau tha thiết song cuối cùng vẫn không lấy được nhau chỉ vì một trong hai người có H. Tiếp đến là bộ phim có tên “Phải chết” cũng sẽ nổi tiếng không kém gì bộ phim “Phải sống” của ông. Qua phim, cháu muốn gửi gắm một thông điệp: con người ta không muốn chết sớm mà phải chết, vì không ngờ Thần Chết lại luôn phục sẵn trong các hành vi nguy cơ cao như tình dục không an toàn và sử dụng bơm kim tiêm chung... Hầu hết phim do cháu sản xuất đều lấy cảm hứng từ những cảnh đời rất thực và nhân vật chính là những nạn nhân đáng thương của AIDS. Đó là một vị công chức suốt đời phấn đấu, giữ gìn thế mà chỉ một phút ham vui đã đánh mất đi tất cả. Một nhân viên y tế bao ngày làm việc nghiêm túc, chỉ một chút lơ là đã vô tình lây nhiễm HIV. Một người lao động vất vả cả đời mới gây dựng nên một mái ấm gia đình nhưng đến cuối đời phải chết trong cô đơn, ghẻ lạnh. Những thanh thiếu niên đang tràn trề nhựa sống, một ngày kia lại trở nên thân tàn ma dại vì lỡ đua đòi hút chích, dùng chung bơm kim tiêm với người có H. Có em bé thơ ngây đôi mắt trong veo nhưng cha mẹ em đã sớm qua đời vì AIDS, còn em thì không biết lúc nào Thần Chết tới mang đi. Lại có cả những cô gái khi biết mình có H đã tính chuyện trả thù đời, gieo rắc cái chết cho bao người khác.
Chao ơi, bao nhiêu con người là bấy nhiêu số phận. Tất cả những yêu thương, đau xót, bạc bẽo, dại khờ cùng những hiểu biết cặn kẽ về cách thức phòng tránh AIDS sẽ được cháu chuyển tải vào phim một cách nhẹ nhàng mà sâu sắc. Cháu hi vọng, với sức ám ảnh đặc biệt, những bộ phim này sẽ vào trong đốt lửa lòng người, xoa dịu nỗi đau, xóa đi mặc cảm và thức tỉnh lương tri của những người còn thờ ơ trước căn bệnh này.

Nhưng ông ạ, cháu thì “lực bất tòng tâm”, cháu nghĩ chỉ có ông mới có thể giúp cháu biến những ước mơ này thành hiện thực để cứu lấy nhân loại. Vì vậy, cháu rất mong được ông lắng nghe và thấu hiểu!        
Kính thư!
Hồ Thị Hiếu Hiền
(Lớp 6/9, trường THCS Tây Sơn, Quận Hải Châu, TP. Đà Nẵng)

Thư gửi Bin Laden đoạt giải nhất cuộc thi viết thư quốc tế UPU

Thư gửi Bin Laden đoạt giải nhất cuộc thi viết thư quốc tế UPU
“Ông muốn Chính phủ Mỹ trả giá nhưng không phải chỉ có họ mà biết bao sinh linh vô tội khác cũng phải lìa đời khi tòa tháp đôi đổ xuống. Đó là mục đích của ông sao?… Ông nổi tiếng thế giới cùng với ba từ “trùm khủng bố”, xin hỏi có gì đáng tự hào?”
Bức thư gửi trùm khủng bố Bin Laden của em Hồ Thị Quế Chi (học sinh lớp 10 văn, trường THPT chuyên Bắc Ninh, TP Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh) đã đạt giải nhất, trong tổng số gần 2 triệu bài dự cuộc thi viết thư quốc tế UPU lần thứ 37 với chủ đề “Hãy viết thư cho một người nào đó để nói tại sao thế giới cần sự khoan dung”.
Sáng 25/6, Ban Tổ chức quốc gia (BTC) đã tổ chức tổng kết và trao giải Cuộc thi viết thư quốc tế UPU lần thứ 37 tại Hà Nội. Nhà báo Phạm Thành Long, Phó Ban thường trực BTC cuộc thi nhận xét, Quế Chi đã khôn ngoan khi quyết định viết thư cho trùm khủng bố quốc tế Osama Bin Laden. Bởi xung đột và khủng bố đã và đang trở nên nguy hiểm, đe dọa hòa bình và an ninh khu vực và thế giới. Quế Chi khẳng định giải quyết mâu thuẫn bằng khủng bố là sự lựa chọn sai lầm. Bằng cách đặt câu hỏi, rồi lập luận để đưa ra câu trả lời, bức thư của Quế Chi là một cuộc trao đổi, tranh luận thẳng thắn và sòng phẳng với trùm khủng bố quốc tế. Với cách lập luận khúc chiết, ngôn ngữ hiện đại, giàu ý tưởng, bức thư của Quế Chi đạt 15,77/20 điểm.
Quế Chi nhận giải thưởng do Thứ trưởng Bộ Thông tin & Truyền thông Nguyễn Thành Hưng trao tặng.
Dưới đây là nội dung bức thư đoạt giải của Quế Chi.
Việt Nam, ngày 31 tháng 12 năm 2007
Gửi ông Osama bin Laden!
Tôi không chắc là ông sẽ đọc bức thư này, nhưng nếu những dòng chữ tôi đang viết hiện diện trong mắt ông thì tôi hy vọng ông sẽ kiên nhẫn để đọc hết nó.
Hẳn ông sẽ cười nhạo khi biết rằng tôi - một nữ sinh trung học bình thường ở một đất nước nhỏ bé - lại dám cả gan viết thư cho một trùm khủng bố khét tiếng? Một trong những lý do khiến tôi cầm bút là muốn giúp ông tin thấy sự thanh thản và lối thoát cho riêng mình. Đừng vội khinh thường lời nói của một cô gái 15 tuổi, tôi có đủ đức tin để hy vọng ông sẽ phải thay đổi suy nghĩ.
Đất nước của ông và đất nước của tôi ở cách nhau quá xa để chúng ta có thể quen biết nhau, mặc dù sự kiện 11-9-2001 đã đưa “tiếng tăm”’ của ông ra toàn thế giới. Có lẽ điều đó làm ông hãnh diện? Ông mâu thuẫn với Chính phủ Mỹ nhưng không có nghĩa là ông có quyền kéo bao người dân thường vô tội vào cuộc chơi bạo lực của mình. Ông có biết bao nhiêu nhà khoa học, bao nhiêu doanh nhân giỏi, bao nhiêu nhân viên, bao nhiêu người dân thường vô tội đã phải chết một cách oan uổng dưới chân tháp đôi kia không? Tôi đã nhận ra là trong cuộc sống, con người luôn luôn chọn lựa và đôi khi đó là chọn một thái độ. Vậy tại sao ông lại chọn sự tức giận và trả thù mà không phải là khoan dung?
Trên ghế nhà trường, chúng tôi được giáo dục rằng: Cuộc sống vốn có nhiều khó khăn, thử thách, đôi khi có cả thất vọng và nỗi buồn. Hãy dũng cảm vượt qua để luôn là chính mình và đừng mất niềm tin, hy vọng, ước mơ. Ông lớn tuổi hơn tôi nhưng không biết ông có học được điều ấy không? Cuộc sống luôn công bằng. Trở ngại và bất hạnh có thể xảy ra bất cứ lúc nào chẳng hề báo trước, nhưng đổi lại, ta sẽ tìm thấy sự kì diệu và vẻ đẹp lớn lao của lòng dũng cảm, của tình yêu thương. Trước những khó khăn thử thách ấy, mỗi người sẽ tự chọn cho mình một cách đón nhận, đối đầu để có một hướng đi riêng. Hẳn ông biết tự đáy lòng mỗi con người đều tồn tại một khát vọng mãnh liệt - đó là khát vọng sống. Tôi nghĩ ông cũng không nằm ngoài số đó.
Ông muốn Chính phủ Mỹ trả giá nhưng không phải chỉ có họ mà biết bao sinh linh vô tội khác cũng phải lìa đời khi tòa tháp đôi đổ xuống. Đó là mục đích của ông sao? Có lẽ ông mừng vì điều đó làm cho Nhà Trắng phải lao đao, khốn đốn nhưng có chắc ông sẽ sung sướng khi nhìn thấy nỗi đau mất mát của biết bao gia đình? Ông đã chọn hận thù và bạo lực. Nếu những người dân thường vô tội kia họ cũng chọn cách làm như ông thì thế giới này sẽ ra sao? Giá như ông sáng suốt hơn để khoan dung thì có lẽ biết bao những giọt nước mắt oan ức sẽ không rơi xuống. Một trong những điều khó nhất và cũng quý nhất đối với con người là sự an ủi.
Đã sáu năm trôi qua, ông nghĩ điều gì sẽ xoa dịu nỗi đau của những gia đình nạn nhân của vụ l l-9-2001? Tôi tin đó là sự khoan dung. Không chỉ tôi mà tất cả mọi người có lương tâm trên thế giới này đều hiểu rằng cái gì đã mất là không thể lấy lại. Chúng tôi nuối tiếc, chúng tôi tổn thương nhưng không có nghĩa là chúng tôi cũng sẽ trả thù giống như ông. Chúng tôi sẵn sàng tha thứ nếu ông nhận ra sai lầm để thay đổi. Nhưng liệu ông có thể khoan dung cho chính mình không? Với tôi, phương thuốc chữa khỏi mọi bệnh tật, lỗi lầm, nỗi bận tâm, ưu phiền và tội lỗi của con người, tất cả đều nằm ở một từ “yêu”. Mà bản chất của yêu thương là sự khoan dung. Nó là sức mạnh tuyệt vời để sản sinh và tái tạo cuộc sống xã hội. Ông không tin ư?
Tôi xin kể ông nghe câu chuyện xảy ra vào năm 1969 khi mà nạn phân biệt chủng tộc ở Mỹ chưa được cải thiện. Một cậu bé người Mỹ gốc Phi là học sinh da màu duy nhất trong một lớp học nọ. Cậu đã kết thân với một cô bé da trắng. Rồi họ chuyển đến ngồi cùng bàn. Vì lo lắng, mẹ của cô bé da trắng đã tới gặp cô giáo chủ nhiệm. Nhưng chứng kiến tình yêu thương của người mẹ da màu, bà mẹ ấy đã lưỡng lự. Cô ấy đã không nói ý định muốn xin chuyển chỗ ngồi cho con mình nhưng vẫn tìm cách ngăn cản tình bạn ấy của hai đứa trẻ. Và món quà sinh nhật giản dị của cậu bé gốc Phi tặng người bạn da trắng chính là sợi dây yêu thương xóa nhòa định kiến về tình cảm...
Câu chuyện đã làm cho tôi vô cùng xúc động về tình cảm con người. Nếu ông cho rằng đây là chuyện trẻ con thì tôi nghĩ ông nên nghĩ lại. Hai đứa bé ấy khác ông ở chỗ chúng tôn trọng nhau và vượt qua rào cản của chế độ phân biệt chủng tộc để đến với nhau. Câu chuyện của hai đứa trẻ là bài họcvề sự khoan dung: Nhìn nhận, đánh giá con người không ác cảm, định kiến mà đầy lòng nhân ái, vị tha. “Tôi ước ao có một ngày những đứa con của tôi sẽ được sống trên một đất nước không có ai bị phán xét bởi màu da của mình mà chỉ có thể bị phán xét bởi chính tâm hồn của họ mà thôi!”. Chắc là ông hiểu câu nói đó?
Sóng không thể tự sinh ra mà chúng được hình thành từ những cơn gió từ trên mặt đại dương. Con người cũng thế, không ai có thể tồn tại trên đời lẻ loi một mình cả. Ngược lại, chúng ta phải sống hòa đồng trong sự hỗ trợ, giúp đỡ của cộng đồng xã hội về mọi mặt. Đó là lý do mà thế giới cần tới sự khoan dung. Sự khoan dung cần thiết cho mọi mối quan hệ mà loài người trên thế giới này đã, đang và sẽ tiến hành. Điều quan trọng đối với mỗi con người không phải là những gì ta nhận được mà chính là những gì ta biết cho đi. Và tôi nghĩ ông vẫn còn sống đến giờ này đã là một khoan dung của Thượng Đế. Ông nên cảm ơn điều đó thay vì tiếp tục tức giận và khủng bố. Sao ông không nghĩ một cách cởi mở hơn rằng Trái Đất này còn sự sống, thế giới này còn chưa bi hủy diệt là chính nhờ sự khoan dung giữa con người với con người?
Ông nổi tiếng thế giới cùng với ba từ “trùm khủng bố”, xin hỏi có gì đáng tự hào? Elaine Maxwell đã nói “Tôi là sức mạnh, tôi có thể phá sạch mọi cản trở trước tôi, nếu không tôi sẽ mắc vào lưới. Chọn lựa của tôi, trách nhiệm của tôi, chiến thắng hay thất bại, chỉ có tôi giữ chìa khóa số mệnh của tôi”.
Tôi đã học được rằng thất bại không có nghĩa là gục ngã, mà chỉ là tạm dừng chân một chỗ trên con đường tiến lên phía trước.
Người ta không thể một mình làm được tất cả mọi thứ. Nhưng người ta có thể làm được một điều gì đó có ý nghĩa cho cuộc sống này. Tôi hy vọng ông sẽ làm được một điều gì đó có ích cho xã hội này, nếu ông gỡ bỏ được hận thù, nếu ông đánh thức sự khoan dung ẩn sâu trong lòng.
Tôi hy vọng dù điều đó thật mong manh!
Chào ông!
Hồ Thị Quế Chi (Việt Nam)
Theo ICTnews/VietNamNet