NHỮNG CÂU CHUYỆN TỪ TRÁI TIM

(Trích Những câu chuyện từ trái tim, Hồi ký Trần Văn Khê, NXB Trẻ và công ty First News, 2010)

Những câu chuyện từ trái tim (phần 1)
Không ai chọn cửa mà sanh, và cũng không ai trong đời chưa từng ít nhiều trải qua sóng gió. Khi cuộc sống đẩy bạn vào một nghịch cảnh, cũng rất có thể đang trao cho bạn một cơ hội để bạn vững vàng hơn trong dòng đời.
Chuyện số 1
Vượt khỏi bóng mây buồn tuổi thơ mồ côi 
Các bạn trẻ thương mến!
Có lẽ các bạn phần đông đã biết cuộc đời của tôi qua những quyển hồi ký hay những bài báo được đăng tải nhiều nơi. Thường thì các bạn chỉ thấy những điểm thành công trong cuộc đời của tôi và hẳn các bạn nghĩ rằng cái số của tôi hay, tốt như vậy là nhờ được sanh ra dưới một ngôi sao sáng.
Nhưng sự thật không phải thế. Tôi cũng chỉ là một người như mọi người, bởi chẳng có con đường nào đi đến vinh quang mà trải đầy hoa thơm, cỏ lạ. Có nghĩa là tôi cũng phải trải qua những khó khăn, những thử thách và phải tự vươn lên bằng ý chí của chính mình.
Hôm nay, tôi muốn dành những trang sách này như một lời chia sẻ về cuộc đời đã qua của tôi để góp thêm kinh nghiệm sống trên hành trình vào đời của các bạn.
Nhiều bạn khi biết tôi mồ côi mẹ năm lên 9 tuổi, mất cha năm lên 10 tuổi thì tỏ ra thương cảm và nghĩ rằng tôi kém may mắn hơn những trẻ đồng lứa. Đúng là mồ côi cha mẹ làm cho tôi cảm thấy thiếu tình thương chăm sóc, thiếu sự nâng niu, thiếu cái quyền được dựa vào cha mẹ khi cần thiết, khi thấy bơ vơ, cô độc.
Cảm xúc ấy vẫn theo tôi trong mỗi chặng đường đời. Khi tỉnh lại sau một ca mổ lớn ở Pháp vào năm 1951, nhìn thấy những bệnh nhân khác có người thân chăm sóc, nghĩ cảnh mình thiếu mẹ cha, tôi không khỏi tủi thân. Nhưng rồi tự nhủ lòng phải cố gắng vượt qua nỗi buồn ấy. Hay hồi tôi ở Honolulu (Mỹ), khi có một bàn tay phụ nữ tấn tấm ra giường và đắp mền cho mình, tôi mơ hồ cảm nhận đó là bàn tay yêu thương của mẹ.
Đến tận bây giờ, khi đã ở tuổi 90, tôi vẫn thỉnh thoảng còn những cảm giác ấy. Những lần tôi đi ngủ, con cháu đến tấn mùng cho, nhắm mắt lại, tôi cảm nhận được như mẹ đang ở bên mình, đang chăm sóc mình. Mỗi lần xức dầu Khuynh Diệp, tôi lại nhớ lúc 4, 5 tuổi, tôi bị đau nhức chân tay, được mẹ xức dầu Khuynh Diệp cho. Tôi nhớ cả cách mẹ giáo dục tôi bằng cách cắt nghĩa đúng sai chứ không bao giờ đánh đập con.
Quay trở lại với tuổi thơ của tôi, dẫu biết rằng tất cả cô bác trong gia đình đều dành tình thương đặc biệt dành cho tôi - một đứa trẻ mồ côi - nhưng đó không phải bổn phận mà do lòng thương cảm, nếu không muốn nói là lòng thương hại.
Tôi cũng tự thấy mình lớn trước tuổi. Tôi hiểu rằng tôi không có quyền đòi hỏi, vòi vĩnh cô bác như đối với cha mẹ. Ngay từ nhỏ, tôi đã không bao giờ trách số phận cho tôi sớm bơ vơ, thiếu thốn tình thương của đấng sinh thành. Bởi lẽ, nếu tôi buồn khổ thì hai em tôi sẽ chỉ buồn khổ thêm. Tôi nhận thấy trách nhiệm của mình với hai em rất lớn. Thương em, tôi càng cố gắng tỏ ra mạnh mẽ, có khóc cũng chỉ khóc một mình, không cho em biết.
Và nếu chỉ nghĩ tới thân phận côi cút, hoàn cảnh đáng thương đó thì tôi không thể vươn xa khỏi bóng mây buồn của tuổi thơ mồ côi.
Trong mọi tình huống tôi luôn nghĩ rằng mình phải tự lực cánh sinh, không chờ đợi sự giúp đỡ của cô bác. Do đó, hoàn cảnh “mồ côi đáng thương” trở nên “cơ hội đáng quý” để tôi tự tôi luyện bản thân.
Rất may, anh em tôi được một người cô là cô thứ ba trong gia đình bên nội, hy sinh cuộc đời, thay thế cha mẹ để chăm lo. Cô cũng có một quan niệm là tập cho đứa trẻ không ỷ lại vào người khác nên mọi việc tôi tự lo cho mình và các em, cô tôi rất ủng hộ và khen ngợi. Dầu nhà có người giúp việc nhưng từ nhỏ cô đã dạy tôi giặt quần áo, may vá. Tôi rất phục, rất thương người cô đó.
Nhờ vậy, tôi biết tự lo cho sức khỏe bản thân. Cứ thấy trong người có chút bất thường thì tôi tự tìm thuốc, tìm thầy để chạy chữa chớ không dám làm rộn cô bác. Tôi biết tự giặt quần áo cho mình và sắp xếp quần áo gọn gàng cho cả ba anh em. Món đồ nào tôi dùng đều dùng lâu hơn người khác. Biết hoàn cảnh mình nghèo, tôi cố gắng giữ gìn để thật lâu mới thay đồ mới.
Khi trưởng thành, tôi biết thế nào là cần kiệm, không xài phung phí. Dầu có tiền, tôi vẫn dùng xe cũ; không đi ăn tại những hiệu ăn sang trọng mà vẫn chọn những hiệu ăn của sinh viên để trả tiền ít nhưng vẫn được ăn uống đầy đủ, biết tự đi chợ, nấu nướng, giặt giũ… Tôi sắp đặt hết mọi chuyện rất nhẹ nhàng, không hề cảm thấy khó chịu mà ngược lại, cảm thấy thoải mái lắm.
Nhờ mồ côi mà tôi không còn tánh ích kỷ của các trẻ thường là giành đồ chơi, giành phần hơn với các em mà trái lại còn biết chia sớt, bao bọc các em.
Ngày ấy, hai em tôi còn quá nhỏ nên đều xem tôi như điểm tựa. Thiếu món gì, thích cái gì, buồn vui thế nào đều chạy kiếm anh Hai. Khi tôi được người cô thứ năm có chồng giàu nuôi tôi ăn học, mỗi ngày cho tôi ba xu để ăn quà thì tôi chỉ tiêu hai xu và để dành một xu một ngày.
Sau một quý, tiền dành dụm lên tới một đồng bạc tức một trăm xu để lúc nghỉ hè, tôi mua cho các em ăn những món ngon mà ngày thường chúng nó không được hưởng hoặc những món đồ chơi mà chúng nó ưa thích. Tôi không nghĩ mua gì cho mình mà dồn hết lo cho em.
Em Trạch (Trần Văn Trạch) thích đốt pháo con rít, tôi nhịn ăn dành tiền mua cho em. Những lần em Trạch buồn vì nhớ cha mẹ, tôi không bảo em đừng buồn nữa mà nhẹ nhàng ôm em vào lòng, vuốt tóc em, hát cho em nghe những bài hát em thích hay tập em hát bài mới. Tính Trạch là vậy, cứ nghe hát, được tập hát là em cười liền. Em vui với bài hát thì cái buồn cũng đi mất.
Sau này, khi Trạch lớn và sang Pháp làm việc, hai anh em không ở cùng nhau, những lúc Trạch buồn, thường tìm đến anh Hai. Một lần Trạch gọi cho tôi: “Anh Hai ơi, em muốn gặp anh Hai…”. Tôi nhẹ nhàng hỏi: “Chi vậy em?”. “Để em còn biết em là ai”. Khi Trạch đến, tôi hỏi: “Em muốn ăn gì hôn?”. Trạch trả lời: “Không anh Hai à! Em chỉ muốn anh Hai đờn vọng cổ cho em ca thôi”.
Em gái Trần Ngọc Sương thì xem tôi như thần tượng, như người mẹ. Khi em học trường nữ sinh Áo Tím (trường trung học phổ thông Nguyễn Thị Minh Khai, TP HCM ngày nay), biết em thích đi coi hát bóng, tôi sắp xếp công việc, dành tiền đưa em đi. Tôi hiểu rằng món quà quý nhất dành cho em chính là sự quan tâm và thời gian của tôi.
Biết em ưa một loại mỹ phẩm làm láng tóc của Pháp, tôi nhịn ăn mua cho em. Khi em bước vào tuổi thành niên, chọn bạn trai, tôi như một “người mẹ” để em chia sẻ tâm tư. Có lẽ cũng tại tôi thương và lo cho em quá nên khi gặp gỡ một người con trai nào đó hơi lơ là, thiếu nhạy cảm là em đã buồn rồi. Có lần em nói về một cậu bạn trai: “Người ấy giọng the thé, không phải giọng trầm giống anh Hai của em”. Tôi bảo: “Em đừng nghĩ rằng trên đời này có hai người hoàn toàn giống nhau. Em phải làm sao thích nghi với hoàn cảnh chớ không thể làm hoàn cảnh thích nghi với mình”.
Em làm tôi rất xúc động khi chọn Ngày của Mẹ làm lễ tạ ơn anh Hai. Em cũng đã giới thiệu tôi với các bạn rằng tôi là một người anh mà em xem như “từ mẫu”. Em tôi đã nhắc lại rằng chưa bao giờ em phải nhỏ giọt nước mắt của thân phận trẻ mồ côi vì đã có anh Hai thay mẹ hiền.
Càng trưởng thành, tôi càng hiểu trong mọi chuyện mình không nên chờ đợi người khác. Những chuyện gì có thể làm được, tôi đều tự làm. Tôi cũng từng nghĩ nếu không mất cha mất mẹ thì có thể cuộc đời của mình đã khác nhưng không thể cứ mãi than khóc cho số phận. Vì như thế chỉ mang cái buồn đến cho mình và những người xung quanh.
Không ai chọn cửa mà sanh, và cũng không ai trong đời chưa từng ít nhiều trải qua sóng gió. Khi cuộc sống đẩy bạn vào một nghịch cảnh, cũng rất có thể đang trao cho bạn một cơ hội để bạn vững vàng hơn trong dòng đời.

Những câu chuyện từ trái tim (phần 2)
Nếu chúng ta buông xuôi trước sự tấn công của bịnh thì sẽ đi tới trạng thái yếu đuối, suy sụp. Bất cứ ở tuổi nào, sự vươn lên chống bịnh cũng còn ở nơi ta. Khi quyết tâm bền chí thì chúng ta có thể biến cái yếu thành ra cái mạnh, cái thiếu thành ra cái đủ.
Chuyện số 2
Những bài ca cho bịnh tật 
Khi nhìn thấy tôi 90 tuổi vẫn minh mẫn và làm được nhiều việc, bạn có nghĩ tôi từng trải qua những trận bịnh thập tử nhất sinh hay từng bị bạn bè ghẹo rằng ốm sao mà trông như con còng gió vậy.
Năm 12 tuổi, tôi bị đau ban bạch. Tôi vẫn đi lại được nhưng yếu ớt, xanh xao, không làm được việc gì nặng. Trong làng tôi, ai nghe bịnh này cũng sợ vì ban bạch thuộc loại khó trị.
Vào bịnh viện trị theo Tây y thì chắc chắn bịnh sẽ không thuyên giảm mà có thể biến chứng, có khi nguy hiểm đến tánh mạng. Cũng may, làng tôi có một Đông y sĩ nổi tiếng trị bịnh ban bạch. Người ta thì gọi là thầy Năm Lự nhưng gia đình thầy Năm rất thân với gia đình tôi nên chúng tôi thường gọi là bác Năm Lự.
Sau khi bắt mạch, bác Năm cho toa bảo tôi phải uống liên tục trong một tuần. Sau ba ngày, bịnh thấy thuyên giảm rõ rệt. Ban nổi trên mình đã lặn, tôi thấy thèm ngồi dậy và gần đến bữa ăn thì thấy thèm những món ăn, chớ không còn lạt miệng như mấy hôm trước.
Sau một tuần, bịnh lành hẳn nhưng sắc diện tôi vẫn xanh xao và cơ thể chỉ còn da bọc xương. Ai gặp tôi cũng có cái nhìn thương hại và thốt lên những câu như: “Tội nghiệp thằng Hai quá! Bị ban bạch hành thành ra thấy nó lỏng khỏng như bộ xương. Ráng ăn uống thật nhiều nghe Hai, để cho bớt xanh xao vàng vọt”.
Mỗi khi Dương Anh - bạn đồng tuổi - đến thăm tôi, tôi rất thèm thuồng màu da mặt hồng hào, thân hình rắn rỏi đi lại chững chạc của Dương Anh và thầm ước muốn một ngày nào đó mình cũng được như bạn.
Nhưng nếu tôi chỉ ước ao mà nằm yên một chỗ than trời trách đất thì chắc không thể nào tôi đạt được ước mơ. Ngược lại, tôi tìm sách để đọc xem có cách nào làm cho cơ thể cường tráng. Tôi tìm được quyển sách bằng tiếng Pháp giới thiệu phương pháp Dynam, rất đơn giản và tôi có thể tập theo liền ngay khi đọc.
Chỉ cần có hai dụng cụ bằng cao su bóp chặt trong tay, rồi chỉ làm những động tác đơn giản. Nhưng quan trọng nhứt là trong lúc hai cánh tay cử động thì phải tập trung tư tưởng và nhìn bắp thịt còn teo nhỏ của mình mà tưởng ra sẽ to khỏe và đẹp như trong hình vẽ. Chỉ có điều là phải chuyên tâm, trì chí không bỏ tập ngày nào. Tuy không nên tập quá sức nhưng phải tập cho đến lúc đổ mồ hôi, đồng thời phải vận dụng hơi thở vừa dài, vừa sâu để sớm điều hòa được hơi thở.
Tôi lại nghe rằng không có gì lợi ích cho cơ thể bằng đi lội. Mỗi ngày, tôi cùng em trai tôi là Trạch, ôm bặp dừa, lội qua, lội lại trong bờ, lần lần, lội từ bờ ra đến dây mỏ neo của ghe chài. Đến lúc tôi thấy có thể lội không cần bặp dừa thì tôi chăm chỉ tập luyện từ ba phút một hơi lội đến mười phút một hơi lội. Tôi thường nhờ anh Bá - người anh họ cùng tuổi tôi - có thân thể tráng kiện và lội rất giỏi - đến trông chừng anh em tôi.
Tôi không ngờ rằng trong vòng ba tuần lễ, bắp thịt “con chuột” của tôi bắt đầu nở nang. Thịt trên cánh tay và trên đùi tôi đã bắt đầu săn chắc. Đến ngày tựu trường, các bạn từng thăm tôi lúc tôi đang đau đã phải ngạc nhiên, la to: “Hôm nay, đâu còn thằng Khê xanh xao vàng vọt, ốm nhom, ốm nhách, lỏng khỏng như một bộ xương? Mặt mũi trông hồng hào, bắp thịt trên ngực, trên vai bắt đầu nổi rồi. Anh tập ở đâu và ai là thầy của anh để anh trong hai tháng hè đã thành lực sĩ vậy?”.
Tôi trả lời trào phúng bằng hai câu thơ: “Tập đâu cho bằng tập nhà / Thầy đâu hơn được bằng ta hỡi người!”.
Rồi tôi tiếp: “Chỉ cần mình quyết tâm mới có thể được thành công. Nếu có thầy ở kèm một bên mà mình không tập trung tư tưởng thì kết quả cũng không như mong muốn”.
Sau đó, tôi đưa cho các bạn coi bảng hướng dẫn tập theo phương pháp Dynam. Đây là phương pháp tập cầm chặt hai miếng cao su tròn trong hai tay và làm những động tác theo hướng dẫn để bắp thịt nở nang. Một số trong các bạn cũng bắt đầu tập luyện theo phương pháp này và cũng thành công.
Cô Ba của tôi lại nhờ anh ba Thuận - người anh họ, con của cậu Năm Khương, rất giỏi võ thiếu lâm - dạy cho ba anh em tôi. Các bài đầu tiên anh dạy là bài quờn “ngũ lộ mai hoa” (đánh ra 5 hướng như hoa mai), “bát bộ liên hoa” (đánh ra 8 hướng như hoa sen), tiếp theo là các thế công, thế thủ. Tôi còn tập đấm tay vào gạo, vào thân cây chuối.
Khi tôi học lớp nhì (qua khỏi tiểu học nhưng chưa lên sơ học), lớp tôi có một cậu tên Phước, da đen, to con, có võ Bình Định và ăn hiếp bạn bè ghê gớm. Một hôm Phước đang ăn hiếp bạn thì tôi nhảy ra can. Tưởng tôi là người thường, Phước nói: “Chuyện này không ăn thua đến cậu. Muốn ăn đòn hôn?”. Tôi nói: “Không biết ai ăn đòn ai?”. Phước nói: “Dám đánh không? Vậy hôm sau hẹn ra đồng trống”.
Đến hẹn, hai đứa tôi kéo ra đồng, có bạn bè kéo theo cổ vũ. Chúng tôi quần nhau suốt một giờ bất phân thắng bại. Sau đó thầy giáo Bảy gọi chúng tôi về. Thầy nói: “Phước có nước da đen, thầy sẽ đặt cho Phước là Lọ Chảo Đại Vương. Khê cận thị, thầy đặt là Cận Thị Đại Vương. Hai đứa bây đều có võ sao không hiệp sức để binh vực những đứa yếu thay vì đánh nhau”. Thấy thầy nói có lý, chúng tôi bắt tay nhau làm hòa, Về sau, hai đứa làm bạn, nắm tay nhau đi chơi, chỉ nhau miếng võ hay… và trở thành đôi bạn thân.
Trong vòng một năm, nhờ phương pháp Dynam, tập lội và luyện võ thuật hàng ngày mà cậu bé Khê lỏng khỏng ngày xưa đã trở thành thiếu niên có phần lực lưỡng. Tôi tự tin yêu cầu bạn bè chụp ảnh mình mặc khố, cởi trần, đứng trên đống rơm và cất tiếng hú như Tarzan.
Nhưng những cơn bạo bệnh ghê gớm hơn vẫn đang chờ tôi ở phía trước.
Ngày 15/8/1951, tôi được chở cấp cứu vào Bịnh viện Cochin Paris từ lúc 4 giờ sáng. Bác sĩ quyết định phải mổ sớm vào sáng hôm đó. Ngoài bịnh ruột dư, bác sĩ còn khám phá ra bịnh lao màng ruột (péritoine) và dự định phải gởi tôi đi vào nhà dưỡng lao trong một thời gian.
10 ngày sau ca mổ này, không may ruột già bị sưng to, máu và mủ tuôn ra tại vết mổ cũ, tôi lại được chở cấp cứu vào bịnh viện. Vì tôi đã ăn cơm trưa nên không thể mổ ngay. Suốt cả buổi chiều, y tá phải rửa vết thương và dùng nước rửa ruột (lavement) để giúp thải hết thức ăn. Sáng hôm sau, tôi lên bàn mổ lần thứ nhì. Chiều lại, vừa mới tỉnh, bác sĩ lại khuyên tôi phải cố tập đi bộ. Vết mổ còn mới nên mỗi bước đi càng làm đau thêm vết thương, cứ đi độ mươi bước, tôi lại dừng nghỉ.
Nhiều bạn hỏi thăm tôi vì sao phải trở lại bịnh viện. Tôi rất lo nhưng nếu bi quan vì căn bịnh thì khi tinh thần kém bịnh sẽ tấn công mạnh hơn. Vì vậy, tôi phải tìm những cách để nói đùa với mình và nói đùa với bạn. Tôi đọc hai câu trong Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu:
Sông trong rửa ruột sạch trơn,
Một câu danh lợi chi sờn lòng đây.
Tôi liên tưởng hai câu thơ ấy khi ruột tôi được rửa sạch trước khi mổ.
Mới mổ xong mà phải đi bộ theo lời dặn dò của bác sĩ, tôi đau không thể tả. Tôi liền đọc câu: “Bước đi một bước, giây giây lại ngừng” (trích trong Chinh phụ ngâm).
Quả thật đau lắm bạn ơi! Tôi lại đọc tiếp câu: “Đoạn trường ai có qua cầu mới hay” (trong Kim Vân Kiều truyện). Chữ “đoạn trường” trong câu ấy tức “cắt ruột”, y như hoàn cảnh tôi lúc ấy.
Bạn bè nghe tôi đọc thơ tự trào khi bệnh tật đang giày vò, ai cũng phì cười và nói với tôi: “Bị mổ ghê gớm vậy mà còn thơ với thẩn”. Tôi cũng cười mà quên cả cái đau của mình.
Cuối hè năm 1952, khi đang ở bịnh viện, từ hè sang thu mà chưa được xuất viện, buồn quá, tôi viết bài thơ:
Ngày mới đến cành xanh hoa tím ngát
Trời cuối hè oi ả nóng như thiêu
Nay cành trơ hoa héo cảnh đìu hiu
Thêm gió lạnh lúc đầu thu… lá rụng
Mỗi khi gió làm cành cây lay động
Nhìn lá vàng từng đám tách cành rơi
Thoạt nhìn qua như đàn bướm nhởn nhơ
Trong giây phút bướm ngừng bay… lá rụng
Chim không hót, hoa không cười, người không hy vọng
Bốn tường vôi trắng xóa một màu tang
Nhìn cảnh buồn dạ khách cũng bàng hoàng
Chiều im lặng! Trăng gần lên! Lá rụng.
Sáng hôm sau thì những vần thơ đã lạc quan hơn:
Nhưng ta hãy cố vui
Vui để cho tiếng cười
Át lên cả tiếng khóc
Đời sẽ thấy xinh tươi.
Trong cuộc đời, có những lúc tôi tưởng mạnh khỏe, rồi sau đó lại bịnh nặng hơn. Tôi không tránh khỏi những vần thơ bi ai:
Hôm nay suối lạc dòng
Dưới ánh nắng vàng suối tan thành hơi suối lên trời
Hơi nước nhẹ nhàng bay, bay lên trời tìm mây mây ơi
Khi bay theo đám mây lành
Bỗng gặp cơn gió lạnh
Hồn nước biến thành mưa trở về trần gian chảy kiếp thừa.
Cũng lúc đó, tôi nhìn ra rừng cây gần nhà thương, hầu hết cây cối đều rụng lá nhưng đặc biệt có một cây thông xanh vững vàng trong thời tiết khắc nghiệt. Tôi liền viết:
Cành thông xanh
Lá thông xanh
Tiết đông lạnh
Cành vẫn xanh.
Cuối năm 1995, tôi ở một mình tại Pháp. Sau khi bị bịnh thấp khớp toàn thân (Polyarthrite - rhumatoide), tôi lại thêm bị lệch cột sống. Trong chín người bác sĩ tôi đã gặp, tôi yêu cầu được một lời khuyên là phải làm cách nào để chống lại bịnh.
Có ba bác sĩ trẻ chuyên môn mổ cột sống, sau khi xem bệnh án và khám sức khỏe của tôi, đã quyết định là tôi phải chịu khó vào bịnh viện để bác sĩ giải phẫu và sắp xếp lại các khớp xương. Không có cách nào khác hơn để trị bịnh này.
Nếu không chịu giải phẫu thì trong sáu tháng chân trái của tôi sẽ bị bại. Một năm sau, sẽ đến lượt chân mặt! Và sau hai năm, tôi sẽ không kiểm soát được đường đi tiểu và đại tiện!
Nếu bằng lòng giải phẫu, trong hai tháng, tôi phải vào bịnh viện để bác sĩ lấy hai lít máu để dành lúc phẫu thuật. Sau khi mổ, tôi phải nằm trong “bao bột” để giữ cột sống trong ba tháng. Và phải tịnh dưỡng, không được làm việc và không được đi xa trong vòng sáu tháng tức là cả một năm tôi phải ngưng công việc để trị bịnh.
Để tôi được vững niềm tin, một trong ba bác sĩ đã cho tôi xem nhiều quyển sách mà ông đã viết về cách trị bịnh lệch cột sống và nói rằng: “Tôi là một trong những người thành công nhứt trong việc giải phẫu cột sống. Số người được lành bịnh lên đến 60%”. Tôi hỏi lại ông: “Tức là có 40% không thành công. Nếu tôi lọt vào trong số này thì tình trạng sức khỏe của tôi thế nào?”. Bác sĩ nói: “Nếu bịnh không lành thì tình trạng sức khỏe sẽ kém hơn nhiều và phải tịnh dưỡng để chờ đợi một kỳ giải phẫu khác”.
Tôi không tin vào một viễn cảnh tốt đẹp nên đã tìm thêm sáu bác sĩ khác giàu kinh nghiệm, trong đó có ba giáo sư, để hỏi ý kiến. Sáu vị đó đều khuyên tôi không nên chịu giải phẫu. Tình trạng sức khỏe của tôi không tốt lắm. Tôi đã bị bịnh tiểu đường gần hai mươi năm nay đã thành ra mãn tính thì vết mổ sẽ khó lành hơn người bình thường.
Tôi đã bị thấp khớp toàn thân và đã được điều trị bằng Cortisone trong 17 tháng. Xương của tôi không còn tốt như người khác thì việc sắp xếp lại các khớp xương không dễ dàng. Công việc của tôi đang nhiều và từ mấy chục năm nay, tôi là người năng động mà bắt buộc tôi phải nằm yên trong một năm về mặt tinh thần các bác sĩ sợ rằng tôi sẽ bị chán nản và không đủ sức đề kháng với bịnh. Lúc bấy giờ tuổi tôi đã trên 70, nếu không lành bịnh sau cuộc giải phẫu, chưa chắc tôi có đủ nghị lực để vượt qua giai đoạn vô cùng khó khăn này và không biết sẽ còn sống khỏe trong vòng bao nhiêu năm.
Các giáo sư giới thiệu cho tôi một bác sĩ tương đối trẻ nhưng có rất nhiều kinh nghiệm trong việc điều trị thấp khớp toàn thân và lệch cột sống. Một nữ bác sĩ người Pháp sau khi gặp tôi, hỏi thăm lý lịch nhiều căn bịnh và thử phản xạ của tay chân, đã nói: “Tôi có thể đề nghị với ông cách chữa khác. Ông phải vào bịnh viện, nằm tịnh dưỡng trong mười ngày. Tôi sẽ tiêm vào tủy của ông hai mũi thuốc có chứa Corticoiid. Ông sẽ bớt đau trong cột sống và sau đó, sẽ phải làm vật lý trị liệu liên tiếp trong một năm rưỡi. Ông sẽ phải chịu khó một tuần lễ bốn lần gặp chuyên gia vật lý trị liệu chỉ cho ông những động tác phải làm và thỉnh thoảng có chạy điện để hỗ trợ cho việc điều trị”.
Tôi đồng ý và đã vào bịnh viện La Pitié Salpêtrière (Paris, Pháp) nằm 10 ngày. Bà tiêm vào tủy của tôi hai mũi thuốc trong đó có chất Corticoiid. Tôi bớt đau ngay và bắt đầu đi đứng được. Nhưng mỗi tuần bốn lần tôi phải đến phòng mạch chuyên vật lý trị liệu để tập đứng, tập đi, đồng thời hai lần một tuần, tôi được chạy điện để làm bắp thịt mạnh mẽ hơn.
Mỗi ngày làm cả trăm động tác có khi cũng… ngán! Tôi đặt ra bốn câu để tự đọc 25 lần, vừa đọc, vừa làm động tác. Tôi thấy bớt ngán và còn hơi vui vui:
Ta tự căng cột sống
Sắp lại các đốt xương
Thần kinh thông bất thống
Ta đi đứng như thường.
Mỗi ngày tôi phải đạp xe đạp tại chỗ, tuy ngồi một chỗ mà có những bảng hiển thị những thông số cho tôi biết tôi đã đi xa được bao nhiêu cây số, tôi đã tiêu được bao nhiêu Calo và thời gian đạp là bao lâu. Mỗi ngày, tôi tự thi đua với tôi, đạp lâu hơn, đi xa hơn, tiêu Calo nhiều hơn. Nhưng ít lâu cũng lại… ngán! Tôi đặt thêm những câu thơ khác để tự trào và giúp sức cho tôi.
Ta ngồi trên xe đạp
Trông có vẻ thảnh thơi
Đạp đi vòng nước Pháp
Xe vẫn đứng một nơi!
Nhờ quyết tâm, lại tự tìm những phương pháp cho mình không chán ngán nên tôi bền chí luyện tập trong một năm rưỡi. Tôi đi đứng yếu hơn trước nhưng vẫn đi được. Vị bác sĩ nữ người Pháp tươi cười và nói: “Việc tiên đoán chân ông sẽ bại nếu không giải phẫu nay không còn giá trị nữa. Tôi có thể khẳng định với ông chân ông có thể phải yếu hơn nhưng sẽ không bao giờ bại. Các bắp thịt chân của ông đủ cứng rắn nếu ông chịu khó tập luyện thường xuyên”.
Đến nay, mười hai năm đã qua, đúng như lời bác sĩ nói, chân tôi có yếu hơn trước nhưng vẫn không bại và mỗi ngày, tôi vẫn luyện tập đều. Trong tướng số, nhiều người tin rằng số trời đã định không cãi lại được nhưng có người cũng nghĩ rằng mình chuyên làm việc thiện thì “đức năng thắng số”.
Trong việc trị bịnh của tôi, tôi cũng tin rằng theo quy luật thiên nhiên, một cái máy chạy nhiều cũng phải bị mòn và cơ thể sau một thời gian cũng phải bị bịnh tật bủa vây làm cho hư hao. Nhưng cố luyện tập thì tôi tin rằng, bịnh có thể phải lùi bởi “luyện tập năng thắng bịnh”.
Đó là những kinh nghiệm, tôi muốn trao lại cho các bạn để khi các bạn có gặp bạo bịnh, không nên ngã lòng, cố tuân thủ nhưng lời khuyên, dặn dò của bác sĩ và bền chí luyện tập. Tôi nghĩ trong 10 trường hợp ít nhứt các bạn sẽ thành công năm, sáu.
Vào tháng 4-2009, bịnh thần kinh tọa tái phát khiến tôi không đứng, không ngồi được, phải nằm liệt giường trên một tháng rưỡi. Tôi đã uống lại các thứ thuốc Tây có hiệu nghiệm từ mười năm trước nhưng vì tôi đã uống quá nhiều thuốc Voltarène là loại thuốc chống viêm nên bác sĩ không cho tiếp tục uống loại thuốc này. Thấy không thuyên giảm, tôi lại cố thử châm cứu theo phương pháp Việt Nam và Trung Quốc. Tình trạng bịnh của tôi cũng không thấy khả quan hơn.
Mấy năm nay, dẫu lớn tuổi nhưng những hoạt động của tôi về âm nhạc và một vài lãnh vực khác vẫn luôn tiếp tục. Tôi làm việc suốt ngày với những chương trình sắp xếp sẵn trong thời khóa biểu của nhiều đài truyền hình, những buổi thỉnh giảng, những buổi hội thảo, hội nghị…
Thời khóa biểu của tôi khá bận rộn vì tôi hoạt động suốt một ngày. Nay, với tình trạng của bịnh thần kinh tọa, tôi phải nằm trên giường, mọi hoạt động bị đình trệ. Thêm nữa, trong khoảng thời gian tôi nằm bịnh, thật ngẫu nhiên một vài người bạn thân quen của tôi lần lượt ra đi về cõi vĩnh hằng. Tinh thần do cơ thể đang bịnh, đang suy yếu, khi nghe những tin buồn này, tinh thần của tôi lại giảm xuống thêm nữa!
Thú thật với các bạn, trong khoảng thời gian đó, đã có lúc tôi cảm thấy chán ngán, tôi muốn buông xuôi sức khỏe, không điều trị, không uống thuốc nữa…
Nhưng tôi rất may, có những người trợ lý nhiệt tình, những môn sinh tận tụy, những bạn bè quý mến đến thăm tôi và đã biết cách khuyên giải tôi, ủng hộ tôi trong công việc chống bịnh và nhứt là nâng đỡ tinh thần. Cái may khác nữa là tôi gặp một y sĩ Đông y chuyên bấm huyệt, bấm gân, bấm các bắp thịt bằng lòng chuyên trị cho tôi nếu tôi sắp xếp thời gian. Suốt hai tháng, ngày nào ông cũng đến trị bịnh cho tôi như thế. Hiện nay thì mỗi tuần ông đến ba bữa.
Nhờ sự nâng đỡ tinh thần của các bạn, tôi đã cố gắng sắp xếp thời khóa biểu để mỗi ngày được điều trị. Phải cố gắng chịu đau, phải chịu khó tập luyện đi mỗi ngày, ăn uống phải cữ kiêng, không ăn hải sản, không uống rượu, ăn rất nhiều rau cải, không thức khuya. Tức là phải thay đổi hoàn toàn nếp sống của tôi.
Sau ba tuần điều trị, tôi bắt đầu ngồi được, đứng được và đi được, đau đớn thể xác đã lui lần, tôi cũng bắt đầu đi thuyết giảng một vài nơi gần nhà với đầy đủ phương tiện di chuyển, tiếp đón.
Tôi thấy như được hồi sinh. Tinh thần phấn khởi đã giúp cơ thể được mau bình phục. Tôi đã trở lại những công việc và sinh hoạt bình thường. Tôi vẫn có thể đi quay phim trong hai ngày tại làng Vĩnh Kim, tỉnh Tiền Giang - nơi chôn nhau cắt rún của tôi. Tôi cũng có thể chịu khó xuống ghe tam bản, ngồi dưới ghe trong 3 tiếng đồng hồ, đi qua những con rạch đầy dừa nước, đọc những câu thơ của Xuân Diệu và tham gia cuộc hòa đờn tài tử trên sông mà không thấy đuối sức.
Sau đó, thêm mấy ngày liền, đoàn làm phim quay phim tại nhà tôi, tại đình của cụ Nguyễn Tri Phương và nhiều nơi khác ghi trong kịch bản. Việc quay phim hoàn tất, tôi đã phải giựt mình mà thấy rằng nhờ sự quyết tâm và những mầu nhiệm trong cách trị bịnh theo Đông y tại nước nhà, tôi tìm lại được sức khỏe.
Hiện nay, ở tuổi 90, tôi đang đối diện với không ít bệnh tật, tiểu đường, thấp khớp, gan nhiễm mỡ… Khi ngủ, tôi tìm được tư thế nằm cách nào cho bớt đau thì sẽ nằm theo tư thế đó và tự nhủ không quá lo lắng về bệnh tật.
Mỗi ngày, từ 8 giờ đến 23 giờ, tôi uống tổng cộng 12 lần thuốc, cả thuốc tây lẫn thuốc bắc, chưa kể bấm huyệt, chườm muối nóng ở chân…
Mỗi lần uống thuốc, tôi hay đọc mấy câu thơ như:
Thuốc này uống để hạ đường
Trợ tim nên thấy tình thương dạt dào
Uống vào mắt sáng như sao
Lưu thông huyết quản ai nào dám quên.
Nhờ vậy mà mỗi lần uống thuốc, tôi thấy vui mà còn tập trung tư tưởng trong việc uống từng viên thuốc, biết viên thuốc đó sẽ giúp trị bệnh gì. Tôi nghĩ có lẽ nhờ vậy mà thuốc hiệu nghiệm hơn. Cũng nhờ tinh thần lạc quan mà dầu bệnh tật hành hạ, tôi vẫn yêu lắm mỗi phút giây được sống.
Bấy nhiêu năm nay, làm việc là niềm vui nhứt của tôi. Hiện nay, buổi sáng, tôi tập thở, sau đó trả lời các thơ từ gởi đến cho tôi, làm việc với thư ký để hồi âm các thư gởi đến mời đi nói chuyện về âm nhạc. Những thư nào gởi đến những người gần gũi, tôi sẽ tự đánh máy. Các thư khác thì nhờ thư ký đánh máy cho. Một công việc quen thuộc khác của tôi là viết nhật ký về những việc đã làm trong ngày. Tôi viết nhựt ký từ khi về Việt Nam vào năm 2006, bây giờ thì nhựt ký đã lên cả ngàn trang. Đọc sách, hiện đại hóa và hệ thống hóa những gì đã nghiên cứu cũng là công việc hằng ngày của tôi.
Từ năm 2007 đến nay, tôi đều đặn tổ chức sinh hoạt định kỳ âm nhạc hai tháng một lần ngay tại nhà để giới thiệu âm nhạc truyền thống dân tộc, mỗi buổi khoảng 100 người tham dự. Tùy vào tình hình sức khỏe mà tôi nhận lời đi nói chuyện về âm nhạc, văn hóa Việt Nam ở bên ngoài.
Với nhiều người, làm như vậy ở tuổi 90 có thể là quá nhiều nhưng với tôi làm việc là niềm vui. Tôi còn thư giãn bằng cách nghe nhạc, đọc thơ, đọc báo giấy, báo điện tử…
Tôi tâm niệm, sống ở đời, đã nhận thì phải trả. Tôi đã nhận được nhiều từ xã hội thì phải trả cho xã hội. Tôi đã nhận được sự sống từ thiên nhiên thì phải cố gắng sống sao cho có ích. Tôi đã nhận được âm nhạc dân tộc từ các bậc tiền bối thì phải trả lại cho thế hệ sau.
Ước nguyện hiện tại của tôi là có thể say sưa nói về âm nhạc trong cả những phút cuối cùng được sống. Có những sự ra đi mãi mãi rất đẹp như nhà thơ Đông Hồ ra đi khi đang đứng trên bục giảng cho sinh viên trường đại học Văn Khoa (bây giờ là trường đại học Khoa học xã hội và nhân văn TP HCM) bài thơ "Trưng Nữ Vương" của nữ sĩ Ngân Giang. Hay như nhà hát kịch Pháp nổi tiếng Molière chết khi đang đóng kịch. Tôi không thích ra đi trong đau ốm, làm khổ người này người khác.
Bạn trẻ thân mến, nếu chúng ta buông xuôi trước sự tấn công của bịnh thì sẽ đi tới trạng thái yếu đuối, suy sụp. Bất cứ ở tuổi nào, sự vươn lên chống bịnh cũng còn ở nơi ta. Khi quyết tâm bền chí thì chúng ta có thể biến cái yếu thành ra cái mạnh, cái thiếu thành ra cái đủ.

Những câu chuyện từ trái tim (phần 3)
Học là chuyện suốt đời, ở tuổi 90, tôi vẫn miệt mài học và có lẽ sẽ học đến ngày cuối cùng của hành trình đời người. Còn gì hạnh phúc hơn khi tìm được niềm vui trong sự học và đem tinh hoa chắt lọc từ sự học ấy dâng hiến trọn vẹn cho đời!
Chuyện số 3
Học như thể đời chẳng dài lâu
Có rất nhiều câu nói hay bàn về sự học, như “Chuyện học cũng giống như đi thuyền trên dòng nước ngược, không tiến ắt sẽ lùi”, “Học, học nữa, học mãi”. Hay một câu nói của nhạc sĩ tài ba người Ấn Độ Mohinuddin Dagar: “Học nhạc cũng giống như đi trên biển. Cứ tưởng nơi mình thấy trước mắt là chân trời và muốn đi đến đó. Nhưng càng đi tới thì chân trời càng xa. Nhưng không vì vậy mà ngã lòng thôi không tiếp tục đi tới. Đời người có hạn mà kiến thức thì vô hạn”.
Trong chuyện học, tôi xác định phải vận dụng tất cả những gì giúp mình nhớ để mà ghi nhớ thật đúng, thật lâu; đơn giản hóa những kiến thức phức tạp, đưa cả thơ ca, diễn xuất vào để việc học thú vị hơn…
Tôi may mắn có được trí nhớ tốt lắm. Năm tôi mới 2 tuổi, mẹ tôi dạy bảng chữ cái cho tôi. Rồi mẹ dùng lá bài cào cắt thành 24 chữ cái, tôi cầm xấp chữ cái trên tay, ném từng chữ lên bàn, dầu chữ nằm nghiêng ngả thế nào, tôi vẫn đọc chính xác. Học mà chơi là vậy.
Ngày nhỏ, mỗi lần tôi dạy em Trạch học, trước khi học, bao giờ hai anh em cũng cùng hát một lúc, nhờ vậy em Trạch không ngán mà thích những buổi học.
Học bài mới, tôi luôn tìm cách sao cho bài học thú vị, dễ nhớ và nhớ lâu nhứt. Khi trả bài ngụ ngôn Con chó sói và con chiên con của La Fontaine, tôi cùng lúc đóng hai vai, chó sói hung ác và chiên con nhút nhát.
11 tuổi, tôi được học bài Khuyến hiếu để:
Cha sanh mẹ dưỡng
Đức cù lao lấy lượng nào đong?
Thờ cha mẹ phải hết lòng
Ấy là chữ hiếu dạy trong luân thường
Chữ để nghĩa là nhường
Nhường anh, nhường chị, lại nhường người trên
Ghi lòng tạc dạ chớ quên
Con em hãy giữ lấy nền con em.
Tôi liền suy nghĩ cách trả bài sao cho thiệt sinh động, thu hút, và dễ thương. Hôm thầy kiểm tra bài, tôi có học chữ Hán nên tôi viết chữ “hiếu” vào lòng bàn tay mặt, chữ “để” vào lòng bàn tay trái và bắt đầu biểu diễn.
Tôi khoanh tay đọc:
Cha sanh mẹ dưỡng
Đức cù lao lấy lượng nào đong?
Thờ cha mẹ phải hết lòng
Ấy là chữ hiếu dạy trong luân thường
Đọc đến chữ “hiếu”, tôi giơ bàn tay mặt ra. Rồi tôi tiếp:
Chữ để nghĩa là nhường
Đến chữ “để”, tôi giơ bàn tay trái ra.
Và tiếp:
Nhường anh, nhường chị, lại nhường người trên
Đến chữ “nhường anh”, tôi đưa tay về phía trái ý chỉ nam tả, đến chữ “nhường chị”, tôi đưa tay về phía phải, ý chỉ nữ hữu. Đến chữ “nhường người trên”, tôi đưa nhẹ hai tay, tay trên, tay dưới.
Đến chữ “ghi lòng”, tôi để tay mặt lên chỗ trái tim, đến chữ “tạc dạ”, tôi để tay trái lên bụng, đến chữ “chớ quên”, tôi đưa tay mặt thẳng về phía trước, cả bàn tay lắc qua lắc lại.
Bạn bè vỗ tay quá chừng. Thầy cũng khen tôi dữ lắm.
13 tuổi, thầy Thượng Tân Thị dạy tôi làm thơ Đường và tôi làm thơ không bao giờ sai niêm luật. Một hôm, thầy ra đề tài: vịnh một món đồ mà em yêu thích bằng một bài thơ 4 câu.
Hồi đó tôi rất thích chèo đò, phần vì nó như một cách tập thể dục, phần vì tôi thấy vui khi anh chèo đò có thể cầm nón quạt mát, nghỉ ngơi đôi chút. Nhiều lần đò cập bến, tôi nhìn thấy hình ảnh em bé chạy ra đón mẹ, mẹ âu yếm ôm em bé vào lòng, lấy quà bánh cho bé, bé cười thật tươi đón lấy. Hình ảnh ấy đáng yêu vô cùng. Tôi rất vui vì đã đưa người mẹ về với đứa con nhỏ.
Hay có lần tôi đang chèo thì có mấy đứa nhỏ lội đã thấm mệt, đưa tay cầu cứu. Tôi đưa cây chèo cho tụi nhỏ bám lấy rồi từ từ kéo tụi nhỏ lên đò.
Bao nhiêu kỷ niệm với chuyến đò ngang là vậy nên khi thầy cho bài tập, tôi quyết định làm bài thơ Vịnh cây chèo như sau:
Một mình làm chúa giữa dòng sông
Bát cạy ngược xuôi tiếng đập đùng
Quyết chí đưa người qua biển khổ
Hết lòng cứu kẻ thoát trầm luân.
(bát cạy tức là chèo cho đò quẹo tay trái, tay mặt)
Thầy ngạc nhiên dữ lắm, sau đó khen ngợi tôi hết lời: “Còn nhỏ mà đã có khẩu khí. Nếu mà con cứ tiếp tục như vậy nữa lớn chắc con… đi tu”.
Thuở nhỏ, tôi học gì cũng giỏi nên được thầy cưng. Lại thêm có võ Thiếu Lâm nên bạn bè càng nể. Từ lớp nhỏ đến lớp học thi tú tài, tôi đều được xếp hạng nhứt. Càng được thương yêu, tôi tự nhủ càng phải cố gắng để không phụ lòng thầy và sự yêu mến của bạn bè. Thêm nữa, tôi rất ưa những gì mới lạ. Sự học cho tôi khám phá thêm những điều ấy. Và một điều tôi tâm niệm khi học đó là muốn đem sự học để nuôi thân, giúp đỡ hai em, giúp đất nước và rộng hơn nữa là giúp cả nhân loại.
Sáng tạo để ghi nhớ
Việc học không tránh khỏi những vấn đề phức tạp, khô khan, khó nhớ. Tôi tự nhủ muốn nhớ lâu những điều ấy thì phải vận dụng tất cả cách nhớ và tự tạo mẹo để nhớ.
Mỗi người thường có một cách nhớ của riêng mình. Có người thì nghe nói lại dễ nhớ hơn đọc sách (mémoire auditive), có người nhìn thấy chữ lại dễ nhớ hơn tai nghe (mémoire visuelle). Nếu chỉ dùng một cách nhớ, theo tôi, là chưa đủ; vì vậy trong mỗi bài học, tôi thường hay vận dụng tất cả các cách nhớ để một thời gian sau đó, có thể một trong những cách nhớ vẫn giúp mình nhớ được, không quên sự kiện đã xảy ra.
Thí dụ, khi học bài lịch sử nên áp dụng:
1. Nghe - nhìn: Nhìn và đọc to bài lên.
2. Chép - đọc lại: Viết ra giấy, viết lên bảng những điểm chính của bài học và đọc to lại. Khi chép lại bằng tay thì đã nhớ một phần, đọc lại giúp nhớ thêm một phần nữa bằng miệng đọc và tai nghe.
Trong học nhạc thông thường, trước khi cho nghe bài hát thì phải chép bản ký âm. Nhưng theo tôi, việc luyện cặp mắt cho tinh, luyện phản xạ cho nhanh chỉ là kỹ thuật bề ngoài. Trong khi đó, trí nhớ chưa được đem ra sử dụng và con tim cảm nhận cái đẹp cũng chưa bắt đầu làm việc. Theo cách dạy truyền thống, trước tiên phải luyện lỗ tai để nghe cho rõ và trí nhớ bắt đầu ghi lại những lời thơ, giọng nhạc, óc thẩm mỹ cũng bắt đầu hoạt động trước khi mắt nhìn thấy chữ hay tín hiệu. Như vậy, muốn rèn luyện cách nhớ lâu, chúng ta nên vận dụng tất cả các cách nhớ: nghe, nhìn, chép, đọc lại. Luyện lỗ tai trước khi luyện con mắt, luyện trí nhớ trước khi luyện phản xạ.
Khi học về một sự kiện quan trọng xảy ra trong một năm nào đó thì người học chỉ nói nhớ sự kiện đó mà thôi, nhưng tôi đặt cho mình một nguyên tắc: học một phải nhớ ba.
Thí dụ, khi nhắc đến năm 1789 thì sinh viên thường nhớ đến cuộc Cách mạng Pháp, nhưng tôi tìm trong lịch sử Việt Nam xem năm 1789 còn có sự kiện gì đáng nhớ hay không. Và tôi biết rằng năm đó là năm vua Quang Trung thắng trận Đống Đa đuổi quân Thanh ra khỏi bờ cõi. Cùng năm ấy, vua Quang Trung phòng xa nên gởi phái đoàn hữu nghị đến vua Càn Long, tỏ ý muốn cầu hòa. Trong dịp đó, vua Càn Long nhà Thanh phong cho vua Tây Sơn là An Nam quốc vương. Cũng vì vậy mà tôi biết luôn vì sao đoàn nhạc của ta có mặt trong ban nhạc cửu tấu của nhà Thanh và có tên là An Nam quốc nhạc.
Hay thí dụ như khi học lịch sử Trung Quốc có những triều đại Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh, chúng ta không thể nhớ những con số chính xác năm nào vào triều đại nào, bắt đầu và kết thúc vào năm nào vì có nhiều số lẻ. Tôi nhận thấy rằng, mỗi triều đại thường trải qua lối ba thế kỷ, chỉ có nhà Nguyên ngắn ngủi nhất là trên tám mươi (80) năm, tôi cho là một thế kỷ. Tôi giản dị hóa bằng cách nhớ:
Đời Đường có 3 thế kỷ VII, VIII, IX
Đời Tống có 3 thế kỷ X, XI, XII
Đời Nguyên có 1 thế kỷ XIII
Đời Minh có 3 thế kỷ XIV, XV, XVI
Đời Thanh có 3 thế kỷ XVII, XVIII, XIX…
Và nhờ vậy mà khi nói đến thời gian của các triều đại, tôi không bị sai lầm.
Thường văn vần dễ nhớ hơn văn xuôi, một câu văn xuôi dễ nhớ hơn một loạt chữ vô nghĩa, đại cương dễ nhớ hơn tiểu tiết. Ngày trước, Hội Truyền bá quốc ngữ đã áp dụng nguyên tắc trên rất thành công. Thay vì bắt học trò viết các chữ cái theo tuần tự, học trò khó nhớ; nhưng khi ghép lại, chẳng hạn, hai chữ i và t với một câu lục bát “i, t giống móc cả hai, i ngắn có chấm, t dài có ngang” thì người lớn và trẻ em đều dễ nhớ. Khi muốn dạy ba chữ o, ô, ơ thì đặt câu “o tròn như quả trứng gà, ô thì đội mũ, ơ thì mang râu”. Trẻ em rất mau biết mặt chữ với cách nhớ như vậy.
Người miền Nam thường không phân biệt dấu hỏi và dấu ngã do cách phát âm khi nói, đến khi viết thành văn bản thì rất bối rối. Nhà ngữ văn học Nguyễn Ngọc Trụ và học giả Hồ Hữu Tường ghi lại một số quy luật về thanh giọng trong những điệp từ:
Ngang - sắc - hỏi
Huyền - nặng - ngã
Thí dụ:
Ngang - hỏi: vui vẻ, thong thả, thanh thản…
Hỏi - ngang: vẻ vang, thở than, mở mang, nghỉ ngơi…
Sắc - hỏi: cứng cỏi, rắn rỏi…
Hỏi - sắc: khỏe khoắn, giỏi giắn…
Huyền - ngã: buồn bã, rầu rĩ…
Ngã - huyền: bẽ bàng, ngỡ ngàng, lỡ làng…
Nặng - ngã: mạnh mẽ, sạch sẽ, lặng lẽ…
Ngã - nặng: nhã nhặn, nghĩ ngợi…
Những từ Hán Việt dịch ra tiếng Việt cũng có đôi lúc theo luật đó.
Thí dụ:
Hỏi - sắc: Bỉnh (bánh) - Ẩm (uống) - Kỉnh (kính)…
Ngã - nặng: Mẫu (mẹ) - Mãnh (mạnh)…
Tôi xem trong Tự điển Hán Việt nhận thấy rằng đại đa số những tiếng Việt bắt đầu bằng chữ cái: d, v, l, m, n, ng, nh là dấu ngã; đa số những chữ bắt đầu chữ cái: ch, gi, kh, s, x là dấu hỏi.
Muốn cho dễ nhớ, tôi đặt ra hai câu như sau:
“Dễ và lễ mình nói ngã nhé”.
“Cha già không sợ xấu”.
Chữ cái đầu tiên trong các chữ của câu cũng chính là những chữ cái phải nhớ. Đó cũng là những mẹo mình tự đặt ra để giúp cho mình nhớ.
Ở tuổi 90, tôi cũng không ngừng sáng tạo cách ghi nhớ. Ví dụ như để nhớ số điện thoại 08.35511249, tôi nghĩ rằng 5511 tức là 5 năm mới gặp một lần, 24 là ngày sinh của tôi, 9 là số thứ tự tầng trong khách sạn mà tôi thường ở. Còn 08 là mã của TP.HCM và số 3 là số thêm mới thì đã nhớ rồi. Vậy là đã nhớ hết dãy số!
Học và sinh hoạt văn hóa, thể thao
Tại trường Pétrus Ký, trong phòng học của sinh viên nội trú mỗi cấp có một tủ sách. Khi giám thị trường Pétrus Ký đề nghị có người giữ tủ sách cho toàn lớp thì không ai chịu tình nguyện cả. Nhiều bạn nghĩ thời gian đâu để mà lựa sách theo lời yêu cầu của học sinh, và hết hạn phải đứng đợi góp sách, kiểm tra xem sách có bị hư hao không, rồi xếp sách vô tủ theo mã số từng quyển.
Tuy mọi người đều ngán công việc này nhưng tôi lại tình nguyện đảm nhận, mỗi năm giữ tủ sách cho mỗi lớp khác nhau. Tôi vốn làm việc có quy củ và rất ham đọc sách. Đúng là có mất thời gian thật nhưng bù vào đó, khi tôi muốn đọc quyển nào thì không ai giành với tôi được. Mỗi học sinh chỉ được phép mượn một quyển sách trong một tuần. Riêng tôi, hễ đọc hết quyển sách đã mượn, lại có quyền đọc tất cả những quyển sách khác trong tủ. Nhờ đó, mà tôi luôn là người đọc nhiều sách nhứt của nhà trường. Việc mất thời gian khi nhận trách nhiệm giữ gìn tủ sách đã được bù đắp bằng việc đọc sách thỏa thuê!
Đến giờ tập thể thao, mỗi học sinh được quyền chọn lựa một bộ môn duy nhất để tham gia, chẳng hạn chọn đá bóng rồi thì không thể ở trong đội bóng rổ hay bóng chuyền. Tôi thích chơi bóng rổ lẫn bóng chuyền, và thích thi đấu với các trường khác. Do đó, khi có cuộc bầu cử Tổng thư ký Hội thể thao của trường trung học, tôi không ngần ngại ứng cử. Khi được lãnh trách nhiệm, tôi có thể chủ động viết thư mời các đội trường khác đến thi đấu. Tôi cũng có quyền sắp cho mình vào đội bóng rổ hay bóng chuyền và chỉ huy các đội tuân theo kỷ luật.
Nhờ có được kinh nghiệm trong tổ chức các cuộc gặp gỡ trong lãnh vực thể thao nên trong lãnh vực nghiên cứu sau này, tôi không thấy ngỡ ngàng trong cách tổ chức hội thảo, hội nghị.
Tại trường trung học Pétrus Ký, tôi là người đề xướng ra lễ đưa Ông Táo về trời trước khi nghỉ học vào dịp Tết. Trong buổi lễ, một phần lớn là dựng lại đủ nghi tiết của một cuộc lễ tế thần, khai xá hạc(1), sắp đặt bàn thờ có lư hương, chân đèn sáp. Sau đó là một chương trình nghệ thuật với sự cộng tác của dàn nhạc truyền thống.
Lúc đó trong trường chỉ có tôi là rành nghi lễ, nhờ cậu Năm của tôi từng dạy. Tôi lại thích biểu diễn trên sân khấu. Thuở nhỏ, tôi theo gánh hát cải lương của cô Ba để coi thỏa thuê, nên khi được phép tổ chức Lễ Ông Táo cho trường, tôi rất vui được thực hiện những gì mà trước kia người lớn làm mà bọn trẻ như tôi chỉ tham dự thôi.
Các bạn tôi sợ mất thời gian học tập nhưng tôi có cách bù vào thời giờ dành cho buổi lễ bằng cách học và làm bài trong ngày chủ nhựt, hơn nữa tôi học bài mau thuộc.
Trong khi vừa tổ chức Lễ Ông Táo, tôi lại phải dựng một dàn nhạc đặc biệt cho trường trung học Pétrus Ký mà tôi đứng ra chỉ huy. Sanh ra trong một gia đình có truyền thống đờn ca tài tử nên tôi thích chuyển những bản theo điệu Bắc vui tươi trở thành những bản có phối khí, có nhiều bè và có sự tham gia của những cây đàn phương Tây. Vì vậy, trong dàn nhạc Pétrus Ký ngoài đàn kìm, đàn cò và sáo trúc, tôi để thêm đàn mandoline, guitare Hawaiienne (lục huyền cầm Hạ uy di) và cây đàn violon do ba bạn Lưu Hữu Phước, Võ Văn Quan, Nguyễn Mỹ Ca biểu diễn. Tôi lại đem dàn nhạc đó ra làm dàn nhạc Scola club của Hội Đức Trí Thể dục, bổ sung thêm cây đàn piano và cây kèn saxophone. Dàn nhạc này biểu diễn những bản nhạc Tây được ưa chuộng lúc ấy như “C’est à Capri”, “Les gars de la marine”, “Marinella”. Đây là hướng đi sai lầm mà mãi sau này, khi tôi đau nặng, phải ở dài hạn trong nhà dưỡng lao, tôi mới giác ngộ và đi theo con đường mà tôi đi đến ngày nay.
Nhờ kinh nghiệm tổ chức Lễ Ông Táo, sau này khi ra ngoài Hà Nội học đại học, tôi được giao cho phận sự tổ chức Đêm Sinh viên hàng năm. Lúc chiến sự lan rộng, tôi đã tổ chức ban kịch sinh viên lưu diễn ở các tỉnh để thâu tiền mua gạo cứu đói, thực sự tôi thấy những công việc này không còn khó khăn gì hết.
Tôi chỉ huy dàn nhạc của trường đại học Hà Nội. Kể ra, tôi phải dành khá nhiều thời gian cho sự luyện tập nhạc công phối khí nhiều bè, bởi vì tôi không phải nhạc sĩ chuyên nghiệp, lại chưa học ngày nào về cách phối khí hay chỉ huy. Tôi chỉ có lỗ tai rất thính và khéo bắt chước động tác của các nhà chỉ huy Pháp thời đó như Jacques Parmentier của đội binh lính khố xanh và ông Grégoire của đội thủy quân. Nhưng tôi được thể nghiệm một điều mà tôi mơ ước từ nhỏ là chỉ huy dàn nhạc.
Tôi nhớ lại lúc đó mà… giựt mình. Vì thật ra lúc đó tôi chỉ thuần bắt chước người ta mà thôi. Và tôi bắt chước giỏi chứ không phải chỉ huy dàn nhạc giỏi. Tôi lại còn kết hợp nhạc truyền thống của dân tộc với nhạc phương Tây. Sau này, tôi đã giác ngộ và nghiên cứu âm nhạc truyền thống Việt Nam cũng là để chuộc cái lỗi phá hoại âm nhạc truyền thống Việt Nam ngày ấy.
Âm nhạc và bài học
Tính tôi thích hát, thích ngâm thơ. Cũng vì vậy mà khi học các bài thơ Tây, tôi cũng ngâm, cũng hát nhưng theo âm nhạc của Tây.
Khi học năm tú tài nhất ở trường trung học Pétrus Ký, một hôm, trong lớp học tiếng Anh, tôi được bà giáo sư gọi lên đọc bài thơ Twinkle, twinkle little star (Hãy nhấp nháy đi ngôi sao nhỏ), tôi thưa với thầy: “Em có thể hát thay vì đọc bài không?”. Bà giáo sư ngạc nhiên: “Nhạc của ai?”. Tôi đáp: “Dạ, nhạc của em”. “Lạ quá nhỉ?! Em hát đi”.
Tôi hát xong thì cả lớp vỗ tay rầm rầm. Bà giáo sư cho tôi 20/20 điểm.
Sau đó, trong lớp học tiếng Pháp, tôi lại được gọi trả bài một bài thơ bằng tiếng Pháp có tựa đề Tiếng than thở của cây đờn violin của Paul-Marie Verlaine. Tôi lại đề nghị được hát thay vì đọc, thầy cũng ngạc nhiên hỏi: “Nhạc của ai?”. Tôi lại đáp: “Dạ, nhạc của em”. Bạn bè tôi lại có dịp nghe một bài hát cũng là bài thơ học thuộc lòng.
Tất nhiên, không phải bài thơ nào cũng có thể ngâm hay hát mà chỉ có một số bài dễ thương như trên. Song, bấy nhiêu đó cũng đủ truyền cho bản thân tôi và các bạn học cảm xúc học tập thú vị và giúp tôi nhớ bài học thật lâu.
Cách ghi mẫu phiếu sách
Khi từ trung học lên đại học, người học thường bị bỡ ngỡ: giáo sư đại học không đưa ra những bài đã soạn sẵn để học thuộc lòng, mà cứ giảng thao thao bất tuyệt rồi bảo sinh viên tìm sách báo đọc thêm. Có thầy cẩn thận ghi sẵn một số sách cần phải đọc, và sinh viên phải vào thư viện hoặc tự tìm mua thêm để học.
Người sinh viên không còn thụ động như một học sinh mà phải chủ động tìm hiểu, phải dám đặt câu hỏi với thầy về những điểm mà mình chưa hiểu thấu hay mình có những nhận định khác với thầy.
Trong khi đi tìm sách báo có liên quan đến đề tài đang học, sinh viên cần biết cách làm phiếu về những quyển sách hay những bài đã đọc, để sau này muốn tìm trở lại thì khỏi phải mất công đi tìm nữa. Trong khi đọc sách, cũng phải biết cách ghi lại những ý, những câu nào liên quan hoặc phản biện đối với chủ đề đang học.
Ngày xưa, muốn tìm tư liệu chỉ có cách vào Thư viện Quốc gia lục các phiếu sắp thứ tự theo tên tác giả, theo đề tài nghiên cứu hay theo ngôn ngữ. Ngày nay có những phương pháp tìm trên mạng internet rất mau, dễ dàng mà giới trẻ đều biết; nhưng khi ghi lại tư liệu, nên nhớ làm phiếu riêng cho mình. Sau đây là một mẫu phiếu:
- Đối với sách:
Họ tên tác giả Việt Nam (Họ: viết chữ thường; tên hoặc bút danh: viết chữ IN HOA, còn nếu tác giả nước ngoài thì ngược lại), tên cuốn sách phải ghi bằng chữ nghiêng hoặc gạch dưới, nơi xuất bản, tên nhà xuất bản, năm phát hành, số trang của ấn phẩm.
Thí dụ:
Lệ VÂN: Hát ru ba miền - Montréal - Tác giả tự xuất bản, ấn hành 1996 - 239 trang
Mai Văn TẠO: Lời ru của mẹ - An Giang - NXB Văn Nghệ Châu Đốc, ấn hành 1986 - 183 trang
- Đối với tạp chí:
Họ tên tác giả Việt Nam (họ: viết chữ thường; tên hoặc bút danh: viết chữ IN HOA, còn nếu tác giả nước ngoài thì ngược lại), tựa đề tài bài viết dùng chữ thường, tên tạp chí phải ghi bằng chữ nghiêng hoặc gạch dưới, nơi xuất bản, tên nhà xuất bản, tháng/năm ấn hành tạp chí, số thứ tự của trang nơi có đề tài muốn tham khảo.
Thí dụ:
Nguyễn Xuân KHOÁT: Hò Hà Nội - Tập san âm nhạc số 4 - Hà Nội, NXB Hội Nhạc sĩ Việt Nam, tháng 10, 11, 12 /1956 - trang 11-14.
Lê HUY: Hát ru Hà Nội - Tạp chí âm nhạc số 1 – Hà Nội, NXB Hội Nhạc sĩ Hà Nội, 1983 - trang 23 - 28.
Trên thế giới, cách làm phiếu đều như vậy.
Tiếp xúc với ngoại ngữ
Tôi ưa học ngoại ngữ vì tôi nghĩ hiểu một ngôn ngữ thì nhờ đó ta sẽ hiểu được một phần văn hóa của đất nước đó. Mai sau, nếu có dịp đến đó thì có thể tiếp cận ngay với người dân bản xứ.
Khi học một ngoại ngữ, tôi học thuộc các bài đối thoại. Học từ vựng cũng có nhiều cách học. Thí dụ như triển khai một động từ “đi” trong tiếng Anh thành đi lên, đi xuống, hay kết hợp động từ này với các từ khác để tạo thành cụm có nghĩa. Vừa học từ vừa đối chiếu từ ấy với các từ trái nghĩa, cùng nghĩa, cố gắng sử dụng từ thật chính xác…
Để rèn ngoại ngữ, tôi cũng siêng đi đến các CLB những người nói tiếng Anh hay trò chuyện bằng tiếng Pháp với bạn bè. Tôi luôn áp dụng nguyên tắc học 1 phải biết 2, 3 dầu học bất cứ môn gì. Và khi học phải hành.
Tôi biết tiếng Anh, tiếng Pháp, đọc và giao tiếp đơn giản được bằng tiếng Trung Quốc. Ngoại ngữ rất bổ ích trong việc nghiên cứu, giới thiệu, giảng dạy âm nhạc truyền thống Việt Nam của tôi tại nhiều nước trên thế giới.
Học vì đất nước
Dầu hoàn cảnh có lắm khó khăn, tôi vẫn cố gắng theo đuổi đường học. Tôi học không phải để có bằng cấp mà để thực hiện được lý tưởng cống hiến trọn vẹn cho âm nhạc truyền thống Việt Nam.
Bằng cấp như đánh dấu một giai đoạn học tập và giúp tôi có phương tiện tiếp tục tiến lên trên con đường mình đã chọn. Bằng cấp không phải là mục đích của cuộc đời.
Khi diễn thuyết về âm nhạc truyền thống Việt Nam ở các nước châu Âu, khi thính giả biết luận án tiến sĩ của tôi là về âm nhạc dân tộc Việt Nam, lại giới thiệu tôi là tiến sĩ, thì các thính giả càng lắng nghe chăm chú và trân trọng hơn. Công việc thuyết giảng của tôi nhờ đó sẽ dễ dàng hơn.
Bạn trẻ thương mến! Dầu bạn học đến tiến sĩ, cùng đừng nghĩ rằng bạn đã giỏi hơn ai và đã đi tới đích. Bởi đường học là vô tận và giá trị con người không ở bằng cấp mà ở những việc người đó đã làm được.
Học là chuyện suốt đời, ở tuổi 90, tôi vẫn miệt mài học và có lẽ sẽ học đến ngày cuối cùng của hành trình đời người. Còn gì hạnh phúc hơn khi tìm được niềm vui trong sự học và đem tinh hoa chắt lọc từ sự học ấy dâng hiến trọn vẹn cho đời!

Những câu chuyện từ trái tim (phần 4)
Khó khăn, cám dỗ vốn dĩ là một phần của cuộc sống, lòng kiên định với mục tiêu của mình sẽ giúp ta vượt qua những điều ấy để hái quả ngọt cho ta và còn để lại cho đời một công trình văn hóa.
Chuyện số 4
Tự lực cánh sinh
Trong đường đời tự lực cánh sinh, nhiều khi tôi phải làm những công việc không liên quan trực tiếp đến chuyên môn nhưng tôi không ngần ngại. Những công việc đó đôi lúc không hao sức, tốn ít thời gian nhưng có thể đem đến lợi tức cao.
Và cũng nhờ trời cho tôi nhiều khả năng để có thể làm tốt nhiều nghề, từ diễn viên, thông dịch phim, lồng tiếng phim, đàn trong hiệu ăn… Nhưng tôi chỉ xem những công việc ấy là phương tiện để tôi thực hiện mục đích quan trọng nhất của cả đời tôi, đó là gìn giữ và giới thiệu âm nhạc truyền thống Việt Nam đến bạn bè thế giới.
Ở bất cứ công việc làm thêm nào, tôi cũng tìm hiểu rõ luật bảo vệ người lao động để không bị bóc lột.
Khi qua Pháp, tôi phải làm nhiều việc khác nhau để sinh sống: ngoài công việc chánh là cộng tác viên cho báo Thần Chung và Việt Báo tại Sài Gòn và theo học Trường Khoa học chánh trị Paris, lúc mấy báo bên nhà bị đóng cửa, tôi đi đàn cho các hiệu ăn Việt Nam trong những đêm cuối tuần, làm thông dịch viên cho tòa án và lồng tiếng phim.
Trong khoảng 1949-1950, tôi đi đờn tranh, đờn cò 15 phút cho hiệu ăn Bồng Lai vào chiều thứ bảy và chủ nhựt. Thù lao mỗi lần là 3.000 francs cũ (tức 30 Francs mới) và được bồi dưỡng thêm một bữa ăn ngon. Tôi còn có thể nhận được tiền tặng thưởng của khách khi họ hỏi tôi về những nhạc khí dân tộc. Tiền đó thường nhiều hơn hẳn tiền thù lao.
Đi đờn ở quán ăn thì không thể không tránh khỏi cảnh mình đờn cứ đờn, khách ăn cứ ăn mà không mấy ai chú ý thưởng thức tiếng đờn của mình. Khi tôi đờn, không khí ồn ào hay khán giả ăn thì tôi không đờn được. Vì vậy, khi bước ra sân khấu, tôi chào khán giả và lịch sự nói bằng tiếng Pháp: “Thưa quý vị, quý vị đến đây là để ăn ngon, chơi vui. Chủ quán muốn tôi giới thiệu hai cây đờn tranh và đờn cò đến quý vị để giúp khoảng thời gian thư giãn của quý vị thêm thú vị. Có thể quý vị chưa từng thấy hai cây đờn này. Tiếng của hai cây đờn này cũng nhỏ và có nhiều điều tôi muốn giải thích để giúp quý vị hiểu hơn về cái hay, cái đẹp của hai cây đờn này. Vì vậy, nếu quý vị có cảm tình với dân tộc Việt Nam và thương người nghệ sĩ thì xin quý vị dừng ăn trong 5 phút”.
Và quả thật sau lời ấy, nhiều thực khách dừng ăn, không khí hiệu ăn im phăng phắc và tôi tiếp tục nói: “Cảm ơn quý vị rất nhiều. Thưa quý vị, tôi đang học Trường Khoa học chánh trị Paris, tôi đến đây diễn để kiếm tiền học. Xin mời quý vị cùng thưởng thức một bài ngắn”.
Và sau khi giới thiệu hai nhạc khí truyền thống của Việt Nam, tôi hát tặng khán giả một bài dân ca của Pháp. Tôi vừa hát vừa kết hợp diễn xuất, thể hiện nhiều giọng điệu khác nhau. Các khán giả rất thú vị và vỗ tay giòn giã. Sau đó, một số khán giả gặp tôi để tìm hiểu thêm về đờn tranh, đờn cò.
Và cứ thế, mỗi khi tôi biểu diễn, khán giả lại ngừng ăn và cùng thưởng thức trọn vẹn âm nhạc. Khi đài truyền hình sang quay hình tại hiệu ăn, họ cũng rất ngạc nhiên với không khí ấy.
Tôi dùng tiếng đờn để mưu sinh, để kiếm tiền theo đuổi đường học nhưng không vì vậy mà tôi sẵn sàng chấp nhận trình diễn tiếng đờn của mình trong những không gian chưa phù hợp. Và vừa đờn để mưu sinh, vừa để giới thiệu âm nhạc truyền thống Việt Nam đến người nước ngoài.
Những hôm rảnh, khi đờn xong, tôi cũng tham gia khiêu vũ ở hiệu ăn. Có một bà công tước đã khá cao tuổi tỏ ra rất thích đờn tranh và tiếng đờn tranh của tôi. Bà nói bà có cây đờn tranh rất đẹp, hôm nào mời tôi đến nhà bà chơi để xem cây đờn quý của bà.
Khi tôi đến, bà đãi một bữa ăn ngon, hỏi về thu nhập của tôi cho một đêm đờn, hát ở hiệu ăn. Cây đờn tranh mà bà muốn tặng tôi quả thật rất đẹp, rất quý. Bà nói: “Bây giờ tôi trả cho anh gấp 20 lần thù lao anh hát một tháng ở hiệu ăn. Chỉ cần chiều thứ bảy, chủ nhựt, anh đi chơi với tôi, nhảy đầm cùng tôi”.
Ngay lập tức, tôi trả lại bà cây đờn và nói: “Thưa bà, bà lầm rồi. Tôi không phải người như thế. Tôi đi đờn hát là để có tiền đi học. Ngày xưa, khi nghe điều gì trái lẽ phải, tôi thường đi rửa tai. Xin bà đừng nói chuyện này lần thứ hai”.
Một vài người khi biết chuyện tôi từ chối đề nghị của bà công tước ấy đã bảo tôi là dại, vậy là tôi lại phải đi rửa tai lần thứ hai.
Có những cơ hội có thể giúp tôi có được những khoản tiền lớn từ tiếng đờn của mình nhưng tôi quyết định từ chối.
Một hãng phim nhờ tôi đờn cò trong 5 phút với mức thù lao 30.000 francs cũ, để lấy tiếng đàn đó làm nền cho cảnh người phu xe Việt Nam đổ mồ hôi kéo xe chở một người Pháp to lớn. Tôi từ chối ngay vì không thể dùng tiếng đờn của mình để góp phần thể hiện hình ảnh đồng bào dưới ách thực dân thuộc địa.
Hay khi Hiệp hội “Những người Pháp đã từng sống tại Đông Dương” (Association des Anciens Colons en Indochine) tổ chức một tiệc lớn để gặp gỡ nhau và nhắc lại chuyện xưa khi các ông còn làm quan lớn trong các cơ quan hành chánh và quan thuế, đã ngỏ ý mời tôi giới thiệu về âm nhạc truyền thống Việt Nam với giá tiền thù lao gấp 20 lần so với mức tôi đờn tại hiệu ăn. Nhưng tôi đã không nhận lời mời này, bởi vì không muốn đem tiếng đờn của mình làm vui tai cho những người đã từng bóc lột dân tộc tôi.
Làm thông dịch cho tòa án thì từ một câu đến một trang giấy hai mươi câu, tôi phải mất 30 phút mà được trả 1.000 francs (cũ). Khi lồng tiếng phim, tôi được trả 8.000 francs (cũ) cho việc nói trong khoảng hai mươi câu đối thoại trở lại.
Trong khi đó, tôi thuyết trình một buổi khoảng hai tiếng về một đề tài âm nhạc như Đờn tài tử miền Nam, Dân ca trong đời sống người Việt tại Bảo tàng viện Guimet thì chỉ được trả 5.000 francs. Để có được một buổi thuyết trình, tôi phải viết ra văn bản tóm tắt, đem hình ảnh dưới dạng dương bản (slide) để rọi lên màn hình, đem tư liệu ghi âm dưới dạng dĩa hát hay băng từ, tự trả tiền xe di chuyển và chuyên chở tư liệu. Mà muốn có được tư liệu dùng trong buổi nói chuyện (sau này cũng dùng trong luận án tiến sĩ tức là công việc chính, lý tưởng chính của cuộc đời tôi), tôi phải mất rất nhiều thời gian đọc sách, ghi chép, chụp ảnh lưu vào hồ sơ, nghe băng ghi âm, phân tích những bài ca, bản nhạc. Làm công việc nghiêm túc được trả thù lao rất ít. Làm công việc dễ dàng, không mất công nhiều trong các dịch vụ thương mại hay giải trí thì được thù lao rất cao.
Có những việc hấp dẫn khác làm tôi do dự hơn nhiều.
Năm 1951, chỉ còn ba tháng là tôi thi tốt nghiệp trường Chánh trị. Đây là mục tiêu mà tôi phải cố đạt được. Có một công ty Ai Cập đang tổ chức một số chương trình văn nghệ châu Á cho một tập đoàn Cabaret (tức là quán ăn và tiệm nhảy có những tiết mục văn nghệ châu Á). Họ muốn mời tôi sang Le Caire (thủ đô Ai Cập) để biểu diễn trong ba tháng. Mỗi ngày 2-3 suất diễn tại Ai Cập, ngoài ra còn diễn tại vài nước Ảrập khác. Tiền thù lao gấp 5 đến 10 lần tôi đang được lãnh tại Cabaret ở Pháp. Các bạn thân khuyên tôi nên nhận để khi trở về có một số tiền lớn rồi tiếp tục học sau. Lúc đó tôi vừa đúng 30 tuổi (tam thập nhi lập) nhưng vẫn e rằng sau khi rong chơi ba tháng, quen với nếp sống phóng túng rồi thì khi trở về, học lại năm cuối trường Chánh trị thì liệu có còn nghị lực để học thi hay chăng.
Tôi sợ mình bị lôi cuốn vào những công việc kiếm tiền mưu sinh khác, có lợi vật chất trước mắt. Tôi đã quyết định không đi Ai Cập và ở lại Pháp để thi tốt nghiệp trường Chánh trị, sau đó tôi được tuyển chọn làm chuyên gia Luật Quốc tế cho Liên hiệp quốc đang họp Đại hội tại Paris. Việc chuyển sang ngành khác, như tôi đã kể, là do cơn bạo bệnh chứ không phải do sự hấp dẫn tiền bạc.
Khi đã đặt ra mục tiêu thì tôi phải cố gắng thực hiện cho bằng được. Mục tiêu của tôi là làm công việc nghiên cứu âm nhạc. Năm 1957, tôi sắp viết xong luận án tiến sĩ về âm nhạc, cũng trong năm đó tôi làm việc thêm rất nhiều cho các công ty điện ảnh, lồng tiếng phim, đóng phim quảng cáo, đóng những vai phụ trong những bộ phim lớn. Như La Rivière des Trois Joncques, một loại phim gián điệp Pháp với các tài tử chánh là Dominique Wims và Jean Gaven, trong đó tôi đóng vai cảnh sát trưởng Việt Nam trong Ủy ban chống gián điệp. Hoặc phim A town like Alice, phỏng theo tiểu thuyết của Nevil Shute thuật lại cuộc đời gian khổ của những người Úc trong thời kỳ bị Nhật chiếm đóng, với hai nghệ sĩ lớn là Peter Finch và Virginia Mc Kenna, trong đó tôi giữ vai Captain Sugaya phải nói tiếng Nhật và tiếng Anh.
Phim đó được chọn để tham gia Liên hoan Phim Cannes năm 1958, và hiện được xem là một trong năm phim hay nhứt do Công ty Rank sản xuất dưới dạng DVD. Trong phim này, tôi được trả thù lao rất hậu. Mỗi ngày đóng phim được trả 50 bảng Anh, trừ thuế thì tôi vẫn còn được 30 bảng Anh. Chưa kể mỗi ngày còn được trả thêm 12 bảng cho việc sinh hoạt hàng ngày (mỗi bảng có giá trị lúc đó là 1.400 francs Pháp).
Vì tôi đang còn là sinh viên, chuẩn bị đi thi tiến sĩ, hơn nữa còn là một cựu bệnh nhân dài hạn nên tôi được mua vé dùng bữa trưa và chiều trong quán ăn đầy đủ chất bổ mà chỉ trả 75 francs một vé. Với số tiền thù lao bên Anh như vừa kể trên, một ngày tôi làm việc là đã đủ trả tiền ăn hơn 500 bữa!
Các công ty điện ảnh bên Anh có viết thơ mời tôi sang, đề nghị tôi đóng nhiều phim lớn nhỏ. Như thế, tôi phải rời nước Pháp, xin thường trú tại Anh, bỏ việc soạn luận án để có đủ thời gian đóng phim mỗi ngày mà tiền thuế lại nhẹ nhàng hơn. Các bạn của tôi đa số rất thích tôi làm việc đó, vì cho rằng công việc nhẹ nhàng, đúng sở thích của tôi, vừa làm vừa chơi mà thù lao rất cao, tên tuổi có thể vang xa. Và như thế “danh lợi lưỡng toàn”. Tôi suy nghĩ trong mười ngày, nhưng cuối cùng tôi quyết định từ chối không sang Anh, để tiếp tục soạn luận án tới ngày bảo vệ vào tháng 6-1958.
Tôi suy nghĩ cặn kẽ, và nhận ra rằng: đóng phim chỉ là một công việc nhứt thời, đem sự giải trí cho các khán giả, “mua vui chỉ được một vài trống canh”. Tên tuổi có vang xa cũng chỉ một thời và đến khi mình từ giã cõi đời thì không còn để lại cho đời một công trình gì hữu ích. Nếu tôi chịu khó học tập lúc này, nếu bảo vệ luận án thành công, tôi sẽ nương theo đó mà tiến lên trên con đường giới thiệu âm nhạc truyền thống Việt Nam trên thế giới và để lại cho thế hệ mai sau những công trình nghiên cứu âm nhạc - mà tôi nghĩ rằng phù hợp với lý tưởng ôm ấp từ thuở thiếu thời của tôi.
Sau đó, tôi dứt khoát chọn lựa con đường tránh xa điện ảnh. Trong 2 năm tôi từ chối không đóng phim, và tôi đã thành công. Sau đó tôi được tuyển vào Trung tâm Nghiên cứu khoa học Pháp, được mời giảng dạy tại trường đại học Sorbonne và được thỉnh giảng tại nhiều trường đại học ở Âu Mỹ.
Công việc của nhà nghiên cứu dĩ nhiên không đem lại thù lao to lớn như tài tử màn bạc, nhưng đó là một niềm vui tinh thần vô giá, không thể mua được.
Khó khăn, cám dỗ vốn dĩ là một phần của cuộc sống, lòng kiên định với mục tiêu của mình sẽ giúp ta vượt qua những điều ấy để hái quả ngọt cho ta và còn để lại cho đời một công trình văn hóa.

Những câu chuyện từ trái tim (phần 5)
Khi vui, tôi xác định không vui quá sức, còn khi buồn thì cũng không quá bi lụy. Nỗi buồn lớn nhất trong đời tôi chính là tôi sớm mất cha mẹ. Những nỗi buồn, niềm đau khác trong đời đều không so sánh được với điều ấy.
Chuyện số 5
Làm chủ bản thân
Khi trưởng thành và vào đời, chúng ta phải làm việc và tiếp xúc với nhiều người thuộc nhiều thành phần. Luyện tập sự tự chủ, chế ngự được những tình cảm “hỉ, nộ, ái, ố” để kiểm soát lời nói, hành vi của bản thân không chỉ là yếu tố cơ bản dẫn đến thành công mà còn để “thành nhân”.
Tôi sẽ kể cho các bạn nghe những câu chuyện về cách “tu thân” của tôi.
“Hỉ”
Trong đời, tôi chưa bao giờ vì một chuyện vui mà bỏ dở công việc đang làm, hay lao vào những cuộc rượu chè với bạn bè mà quên cả sức khỏe.
Trong thời gian ở Việt Nam, tôi có một nhận xét, là mỗi lần đội bóng của Việt Nam thắng đội bóng nước ngoài thì nhiều thanh niên đua xe bán sống bán chết, gây ra những tai nạn giao thông đáng tiếc, làm tổn hại đến bản thân và người khác. Vui quá đến mức gây ra những hậu quả khó lường là điều các bạn trẻ cần tránh.
Ngay cả khi tôi đón nhận những niềm vui như đậu tiến sĩ tại Pháp năm 1958, tôi cũng không vui quá vì nghĩ rằng mình đã học hết sức, đã đi đến chặng này thì phải được như thế. Còn nếu không được như vậy thì mình phải xem xét tại sao lại không được. Vui là vui vậy thôi! Tôi cũng chỉ đãi một tiệc nhỏ trong nhà, mời các thầy đến dự như một cách cảm ơn thầy.
Hay khi tôi được Trường đại học Canada trao tặng tiến sĩ danh dự năm 1975, được trao tặng giải thưởng UNESCO năm 1981, tôi cũng vui mừng nhưng không vui quá đà.
Năm 1991, tôi được Bộ Văn hóa của chánh phủ Pháp tặng Chương mỹ bội tinh. Tôi không làm hồ sơ để xin giải thưởng này mà có người khác đề cử tôi. Lẽ thường, người được nhận giải thưởng sẽ tổ chức tiệc, mời bạn bè đến dự, rồi xin một người trong chánh phủ Pháp đến gắn Chương mỹ bội tinh cho mình, chụp hình lưu niệm… Nhưng tôi xét lại hoàn cảnh của mình. Lúc đó, tôi vừa về hưu trí, tất cả quyền lợi trong trường không còn nên nếu muốn có một nơi tổ chức tiệc và đón nhận huân chương thì phải thuê, bạn bè lại đông, không thể mời người này mà không mời người kia… Tôi tính sơ sơ tốn khoảng mấy chục ngàn francs nếu muốn làm như vậy. Tôi nghĩ, mình đang không có tiền mà còn bỏ một khoản không nhỏ để cho người ta thấy mình vừa có đạt được vinh dự này thì vô lý quá!
Tôi suy nghĩ suốt 15 ngày có nên làm hay không nên làm buổi đón nhận phần thưởng cao quý ấy. Cuối cùng tôi quyết định viết thư cho Bộ Văn hóa của chánh phủ Pháp với nội dung: “Tôi rất mừng, rất hân hạnh được nhận Chương mỹ bội tinh. Thế nhưng, hiện nay, tôi đã hưu trí, không đủ tiền và không có cơ quan nào giúp tôi tổ chức lễ tiếp nhận. Tôi xin Bộ Văn hóa thông cảm, gởi theo bưu điện huân chương và bản quyết định tặng huân chương của Bộ Văn hóa”.
Tôi cũng nghĩ rằng số tiền ấy tôi dành cho học bổng học trò thì có ích hơn là tổ chức một buổi lễ như vậy. Chương mỹ bội tinh được gởi đến tôi, rồi tôi gởi thư cảm ơn. Vậy là khỏi làm rộn phía Bộ Văn hóa và bạn bè.
Khi vui, tôi xác định không vui quá sức, còn khi buồn thì cũng không quá bi lụy. Nỗi buồn lớn nhất trong đời tôi chính là tôi sớm mất cha mẹ. Những nỗi buồn, niềm đau khác trong đời đều không so sánh được với điều ấy.
Tôi cũng hiểu rằng khi tôi buồn nhiều, cơ thể sẽ sa sút, suy yếu, dễ bị bệnh tật tấn công. Như khi người cậu của tôi qua đời thì ít tháng sau tôi bịnh nặng phải vào nhà thương. Hay khi em trai tôi qua đời, mấy tháng sau tôi đau nặng. Vì vậy, khi gặp chuyện buồn, tôi cố gắng giải quyết trong vòng 5 phút, không để chuyện buồn làm ảnh hưởng đến thân thể, công việc.
Để không vui quá đà, không buồn quá sức, tôi nghĩ, yếu tố thứ nhứt là phải biết chọn bạn mà chơi. Từ nhỏ, tôi không muốn chơi với con nhà giàu vì không muốn tủi thân. Bởi vì con nhà giàu mặc sang, xài sang, có thể mình sẽ tủi thân vì sao mình không được như vậy. Mà tôi lại không muốn có cái tủi thân đó.
Tôi may mắn có được những người bạn tốt trong đời. Những người bạn thân của tôi hầu hết là những người có hoàn cảnh khổ giống tôi, tánh cách hòa hoãn, không gây sự, không lỗ mãng và có điều gì đó để tôi học hỏi. Có như vậy thì bạn bè mới nương tựa, hỗ trợ nhau, giúp nhau tiến bộ.
Cũng có khi có người hỏi tôi, khi chơi với vài người mang tiếng không tốt, tôi không sợ bị lây tánh xấu hay sao. Tôi trả lời rằng tôi không bao giờ bị nhiễm tánh xấu mà ngược lại, còn có thể cảm hóa được người bạn đó, để họ thay đổi cách sống, quan điểm.
Nhiều doanh nhân rất thích thú khi chơi với tôi. Lâu lâu, họ lại mời tôi ăn cơm để được nghe tôi đọc thơ, nói về âm nhạc Việt Nam. Họ lắng nghe say mê lắm. Sau đó, họ nói với tôi rằng cuộc sống của họ thường gắn với những con số khô khan, vì vậy họ thấy rất thú vị khi được nghe tôi nói về âm nhạc. Có người chỉ muốn làm giàu để tạo cho mình một đời sống vật chất phong phú, tôi gợi ý cho họ về việc cấp học bổng cho học sinh nghèo. Sau này, có người đã đem cả gia tài làm việc thiện.
Yếu tố thứ nhì để không vui quá đà, không buồn quá sức là phải có bản ngã trong đời. Tôi luôn xem xét mọi việc cẩn thận và không bao giờ bị bạn bè lôi kéo. 100 người tính thế này, tôi sẽ vẫn cứ tính thế khác khi tôi biết tôi đúng. Còn nếu thấy mình sai thì tôi sẽ hết sức phục thiện. Tôi không chỉ phục thiện với người lớn mà cả với người nhỏ.
Tôi cũng học ở Đức Khổng Tử rất nhiều. Khổng Tử có nói về “trung dung”, tức không có gì quá sức hết thảy. Tôi nhớ câu: “Ai nhi bất thương/ Lạc nhi bất dâm”, tức là buồn nhưng không để bi lụy, vui không để mất cả lễ độ. Những điều đó lần lần ảnh hưởng đến tánh cách của tôi.
Nền tảng giáo dục hết sức nghiêm mà cô Ba xây đắp cho tôi cũng góp phần định hình tánh cách bình tĩnh trước mọi việc của tôi. Cô Ba dạy rằng có việc gì cũng cần xem xét cẩn trọng, đừng để có những phản ứng ra ngoài sự kiểm soát của lý trí.
“Nộ”
Tôi sanh ra bản tánh rất nóng nhưng không bao giờ muốn đánh người khác mà chỉ thường đập đồ, đá vào cửa nhà, cửa tủ… để thỏa cơn giận.
Một hôm, tại Bảo tàng viện ở Pháp, nơi tôi làm việc, tôi nhờ một học trò (cũng chính là con trai Trần Quang Hải của tôi) ghi âm giúp tôi phần nói chuyện cả một buổi sáng về trống chèo của các nghệ sĩ chèo từ Việt Nam sang.
Khi tôi làm xong công việc riêng, đến nghe lại cuộn băng thì khám phá ra rằng, con tôi lúc cho băng vào đầu máy ghi âm đã để băng lệch nên tuy băng chạy mà không ghi được gì cả.
Tôi tức giận khôn cùng vì mất cả một buổi sáng mà việc chép băng như công dã tràng. Tôi thường nhắc các cộng sự trong công việc phải để ý từng chi tiết và luôn luôn kiểm tra kết quả. Vậy mà hôm nay, con tôi sơ sót trong lúc làm việc.
Cơn giận xung thiên làm tôi quên tất cả. Tôi đưa tay đập mạnh cửa tủ đựng băng, cánh cửa bể tan làm tôi thức tỉnh lại. Bảo tàng viện cho phép tôi làm việc tại phòng thu băng này mà chính tôi không gìn giữ tủ bàn, máy móc… liệu sau này tôi có còn được phép sử dụng phòng ghi âm để làm công việc soạn luận án nữa chăng? Trong buổi chiều, tôi tìm gấp một người thợ mộc đến sửa cửa tủ. Con tôi cũng vừa buồn vừa hối hận. Tôi tuy trút được cơn giận nhưng lại gây buồn lo cho bản thân và cho con, khi ăn năn thì sự đã rồi.
Hay một chuyện xảy ra vào năm 1963, sau khi tôi đi Israel về, chỗ mổ cũ của tôi bị sưng to. Tôi phải uống một loại thuốc đặc trị suốt 6 tháng và phải ký giấy cam kết với bịnh viện vì loại thuốc này dễ làm người uống phát điên.
Tôi uống thuốc đến tháng thứ hai thì thấy trong người bắt đầu khó chịu. Một hôm, tôi gọi y tá đến, nhưng cô ấy đến hơi trễ nên bỗng dưng tôi giận vô cùng. Tay tôi run run, sắp vung lên, cũng may là tôi chưa bạt tai cô ấy. Sau đó, tôi giựt mình nghĩ lại, mình đâu phải người như vậy. Tôi quyết tâm phải chế ngự những cơn giận do tác dụng phụ của thuốc gây nên.
Mỗi lần sắp lên cơn giận, tôi uống hai, ba ly nước lạnh, hít thở sâu, đi chầm chậm đôi ba bước thì cơn giận xuống liền. Tôi cũng hiểu rằng, khi đang giận thì không nên hành động, chuyện gì cũng phải dừng lại. Nếu đang cãi nhau thì không cãi nữa mà về nhà suy nghĩ xem mình đúng, sai chỗ nào. Nếu thật sự mình có lỗi thì tôi sẵn sàng xin lỗi và không tái phạm nữa. Trước khi trách người, tôi luôn tự xét mình.
Sau một năm luyện tập, tôi mất hẳn chứng “nổi trận lôi đình”. Trong mọi việc, tôi cố tìm hiểu và khoan dung với những thiếu sót của các cộng sự. Từ đó đến nay, tôi không còn lâm vào cảnh quá nóng giận để rồi phải ăn năn.
Tánh nóng, dầu là bẩm sinh, không phải không sửa đổi được nếu bạn quyết tâm, bền chí. Trong mọi trường hợp, ta nên để lý trí kiểm soát bản năng.
 “Ái”
Chưa bao giờ tôi si và mê trong tình ái. Tôi cũng chưa bao giờ chọc một người con gái hay chủ động đi tìm tình cảm. Phần nhiều chuyện tình cảm tự tới, tôi mở lòng đón nhận nếu có thể.
Tôi cũng không bao giờ ghen. Vì cơn ghen là do mình không tin tưởng người bạn đời của mình và không tin ở chính mình. Ghen tức là nghĩ bạn đời của mình bỏ mình đi lấy người khác. Như vậy là không tin vào tấm lòng của người bạn đời. Ghen rồi thì thường tìm cách níu kéo họ trở lại. Lúc đó, tình cảm không còn như xưa và còn có thể gây ra nhiều tác hại khó lường.
Nếu người bạn đời bỏ mình cũng tức là mình không đủ điều kiện để họ thương yêu, gắn bó. Thà rằng chủ động chia tay trong êm thấm, để họ ra đi là tốt nhứt.
Chưa bao giờ tình yêu của tôi vượt ra ngoài lý trí. Tôi lập gia đình cũng vì lý trí vâng nghe đề nghị của cô tôi để có con trai nối dõi họ Trần. Lúc đi học Hà Nội, tôi trốn tránh cuộc tình chớm nở cũng vì đã có lời hứa với cô tôi. Trong suốt cuộc đời dạy học, dầu có nhiều nữ môn sinh xuất sắc trong học tập, dịu dàng âu yếm trong giao tiếp hằng ngày mà chưa có lần nào tôi làm sai bổn phận “thầy - trò” vì lý trí luôn thắng tình cảm.
Nhưng cũng có đôi lần trong đời, tôi đứng trước “thử thách” giữa tình yêu và sự nghiệp, gia đình. Tôi phải chọn cho mình cách ứng xử thế nào để trọn vẹn cả lý và tình.
Vào những mùa đông ở bên Pháp, nhiều người lên núi trượt tuyết hay hít thở không khí trong lành. Mùa đông năm 1960, tôi có khoảng thời gian nhàn rỗi nên lên núi thư giãn. Tình cờ, tôi gặp một người bạn gái rất thân tại đây. Ở một nơi xa xôi, không có gia đình và công việc buộc ràng, chúng tôi cùng ngắm tuyết rơi, uống trà và chia sẻ với nhau những cảm giác êm đẹp của cuộc sống.
Sau một tuần lễ gặp gỡ, tình cảm giữa tôi và cô ấy phát triển đến mức tưởng rằng sống mãi bên nhau như thế này thì thật hạnh phúc. Nếu chỉ nghe tiếng gọi của trái tim thì chúng tôi đã có thể bỏ tất cả gia đình, công việc để chung sống với nhau. Nhưng mỗi người chúng tôi đều có lý trí rất mạnh. Cô ấy thấy rằng công việc của tôi đòi hỏi sự tự do chớ không phải bị buộc ràng trong một gia đình nhỏ bé. Tôi thấy rằng dầu sống một mình tại Pháp nhưng tôi còn bốn con và mẹ của chúng tại quê nhà, công việc nghiên cứu của tôi vừa bắt đầu tốt đẹp có thể bị ngưng trệ vì việc này.
Gia đình của cô là một gia đình quý tộc, anh chị em của cô rất đỗi thương mến tôi. Nếu chúng tôi chỉ nghĩ đến hạnh phúc riêng của mình, có thể chúng tôi sẽ làm tổn thương nhiều người khác. Khi lý trí chiến thắng tình cảm, tôi và cô ấy đều nhận thấy tình yêu chỉ đem lại cho mỗi người chút ấm êm nhưng không thể đánh đổi sự ấm êm ấy với bao nhiêu khó khăn sẽ gặp, bao nhiêu mất mát sẽ chịu đựng.
Từ nhận thức đó, chúng tôi có một khoảng thời gian để cùng nhau quyết tâm chuyển tình cảm yêu thương nồng thắm thành tình bạn thân thiết. Cô bạn tôi lúc bấy giờ đang có ba, bốn chàng trai “rắp ranh bắn sẻ”. Cô bảo tôi lựa cho cô một người bạn trăm năm trong số họ. Chúng tôi cùng nhìn những người đó một cách vô cùng khách quan và đi đến kết luận cô nên nhận lời cầu hôn của người nào. Cô đã nghe lời tôi.
Đến nay, hơn ba chục năm trôi qua, cặp vợ chồng đó sống trong hạnh phúc, lập nên sự nghiệp, con cháu nên danh phận. Mỗi lần gặp lại nhau, tôi mừng cho cô ấy lắm. Có lần, cô lắc đầu mỉm cười mà nói: “Ai sống ở đời cũng phải thích nghi với hoàn cảnh của mình nhưng không bao giờ có một hạnh phúc trọn vẹn”.
Các bạn thấy chăng, nếu chúng tôi không đủ sáng suốt để nhìn thấy những điều không hay có thể xảy đến, không đủ nghị lực đi qua một mối tình êm ấm nhứt thời thì công việc nghiên cứu âm nhạc của tôi sẽ không đi đến kết quả đẹp đẽ và cô bạn ngày ấy cũng chưa chắc có được một mái gia đình êm ấm và tình thương trọn vẹn của chồng con như ngày nay.
Hay trong chuyện tình một đêm với nàng kỹ nữ Paris mà tôi kể ra sau đây, các bạn cũng sẽ thấy yếu tố lý trí trong chuyện tình ái.
Khoảng năm 1951, tôi lấy tên Sơn Ca, đi hát ở tiệm Bồng Lai để kiếm tiền ăn học. Trong tiệm còn có một cô gái Pháp rất đẹp làm nghề múa thoát y. Tuy làm cùng chỗ nhưng không phải lúc nào tôi và cô cũng gặp nhau mỗi đêm và cô cũng không nghĩ rằng tôi đi hát để kiếm tiền đi học.
Một hôm, sau khi biểu diễn xong, vẫn để ngực trần, cô chạy vào cánh gà, bất ngờ vấp ngã, đụng phải người hầu bàn đang bưng hai tô phở đi ra. Phở đổ hết lên người cô ấy. Cô la lên đau đớn. Có người bảo lấy nước mắm cho lên chỗ bị phỏng, cô bảo nước mắm hôi nên không chịu cách ấy. Có người bảo dùng thuốc, nhưng lúc đó kiếm đâu ra thuốc ngay. Tôi nhớ lại có người dạy tôi rằng khi bị phỏng thì dùng cồn 90 độ đổ vào miếng bông băng rồi đắp lên vết phỏng. Cồn sẽ hút cái nóng và vết phỏng sẽ không để lại thẹo. Mà cồn 90 độ thì có sẵn ở đó.
Tôi và cô ấy vào một phòng riêng, cô khẽ nhắm mắt, nằm yên cho tôi đắp cồn. Quả thật, ngực cô rất đẹp. Tôi đắp cồn lên ngực cho cô xong thì cô nắm tay tôi, ánh mắt đầy vẻ cảm ơn và nói:
- Hôm nào đó tôi muốn ăn cơm với anh!
Tôi đồng ý nhưng thật ra sau đó, tôi và cô ấy vẫn chưa có dịp ăn cơm với nhau vì tôi bận rộn chuyện học, chuyện làm.
Đến một bữa kia, tôi đang đi bộ đến trường Chánh trị Paris để ghi tên tham gia buổi khiêu vũ cuối năm do trường tổ chức, khi đi ngang qua một quán cà phê, tôi nghe ai đó gọi:
- Sơn Ca! Sơn Ca!
Tôi quay lại thì thấy cô kỹ nữ Paris đang ngồi uống cà phê một mình. Cô nói:
- Anh hẹn ăn cơm với tôi mà chưa bao giờ thực hiện. Thôi bây giờ anh uống cà phê với tôi. Mà anh đang đi đâu vậy?
Tôi đáp:
- Tôi đang đi đến trường Chánh trị Paris để ghi tên tham gia lễ tất niên của trường.
Cổ ngạc nhiên dữ lắm:
- Ủa, chớ không phải anh chỉ đi hát ở tiệm Bồng Lai sao?
Tôi đáp:
- Tôi hát để kiếm tiền đi học ở trường Chánh trị Paris.
Cổ nói:
- Tôi mê trường đó lắm. Nghe nói trường đó sang trọng lắm và khó vào. Sinh viên nào chưa đóng tiền hay ăn mặc không đàng hoàng đều không được vô trường. Nhiều người làm chức cao học từ đó mà ra. Tôi thèm vô trường đó một lần cho biết lắm. Anh dẫn tôi đi được không?
Ngày thường thì phải có lý do chánh đáng mới được vô trường. Nhưng hôm nay, tôi có thể dẫn cổ vô trường và nói cổ là người sẽ khiêu vũ với tôi trong lễ tất niên. Khi tôi nói điều đó với cổ, cổ mừng rỡ:
- Sướng quá, cho tôi đi theo với!
Cổ định đi xe buýt nhưng tôi bảo trường chỉ cách quán cà phê 300 thước, đi bộ vui hơn. Cổ đồng ý. Chúng tôi vui vẻ nắm tay nhau đi bộ đến trường.
Tôi nắm tay cổ đưa vô trường, chìa cái thẻ sinh viên với nhân viên trường và giới thiệu:
- Đây là người sẽ khiêu vũ với tôi trong đêm giao lưu.
Cổ cười và nói với tôi:
- Hồi nãy anh phải nói vậy để tôi được vô trường, nhưng nếu thiệt bữa đó, anh cho phép tôi đi khiêu vũ với anh, tôi sẽ hết sức sung sướng.
Tôi đồng ý và nhắc cổ khi đi khiêu vũ phải ăn mặc đàng hoàng, không thể ăn mặc như khi đi làm ở tiệm Bồng Lai. Cổ cười nói:
- Tại vì vô tiệm nên tôi bận thường, chớ vô chỗ dạ hội tôi bận khác. Anh làm như tôi không có áo dạ hội vậy.
Tôi cười:
- Bỗng dưng tôi có một người đàn bà đẹp đi khiêu vũ với tôi. Tôi không bao giờ nghĩ tôi có tiền đi chơi với người như vậy.
Cổ cũng cười:
- Tôi cũng không nghĩ rằng ngày nào đó tôi sẽ đi nhảy đầm với một người sinh viên, không trả tiền cho tôi mà tôi phải nghe lời người đó thế này thế nọ.
Rồi cổ nghiêm mặt lại:
- Điều đó giúp tôi trở lại cuộc sống của một người con gái bình thường chớ không phải là gái điếm như thường ngày.
Trước khi tôi đi đăng ký khiêu vũ, trong trường có ba cô bạn gái đều thích nhảy với tôi. Cô nào cũng nói: “Hôm đó nhảy với tôi nhé!”. Tôi bảo: “Ba cô tôi đều thương bằng nhau. Ai đến ghi tên trước thì tôi nhảy với người đó”. Nhưng bây giờ, tôi đã quyết định nhảy với cô gái Pháp này. Cổ vừa ghi tên trong sổ xong thì một trong ba cô bạn thích khiêu vũ với tôi đi đến. Cô bạn nói:
- Tôi là người thứ nhứt hay thứ nhì đây?
- Tiếc quá cô là người thứ nhì, người thứ nhứt là đây - Tôi nói và hướng về phía cô kỹ nữ.
Cô bạn ngạc nhiên khi thấy đó không phải là người trong trường. Lát sau, cô bạn hỏi tôi:
- Ai vậy?
Tôi giới thiệu:
- Đây là cô bạn làm việc chung với tôi trong nhà hàng. Cổ khiêu vũ khỏa thân còn tôi giới thiệu âm nhạc.
Cô bạn hỏi lại:
- Anh đang là sinh viên mà nghề nghiệp gì?
Tôi nói:
- Tôi đi làm để có tiền đi học, vì tôi phải tự lo cho cuộc sống của mình.
Cô bạn giựt mình. Khi hai cô bạn kia đến thì cô bạn đến đầu tiên đùa:
- Thôi thôi, anh ta có người nhảy cùng rồi. Chúng ta vô ghi những bản còn lại, anh đừng cho ai ghi nữa nhé.
Vậy là cô kỹ nữ và ba cô bạn ghi kín sổ khiêu vũ của tôi. Cô kỹ nữ hỏi tôi:
- Hôm khiêu vũ, anh mặc cái áo màu gì? Anh muốn tôi mặc áo màu gì?
Tôi đáp:
- Tôi mặc áo đen thắt nơ trắng, da cô trắng, nếu cô mặc áo màu hồng thì sẽ đẹp lắm!
Cổ bảo:
- Tôi sẽ mặc áo hồng. Bữa đó để tôi đi taxi sang trọng đến đón anh nhé!
Tôi bảo:
- Thôi, đi taxi thường là được rồi!
- Chương trình này một năm chỉ có một lần, tôi mời anh nên cứ nghe tôi. Vả lại, khi đi xe bình thường, người ta sẽ xem thường tôi, tôi sẽ mất giá.
Vì không có quần áo sang trọng nên tôi phải đi thuê một bộ áo đuôi tôm, thắt nơ trắng. Đến ngày khiêu vũ, chủ khách sạn hết hồn vì có một cô gái rất đẹp đi xe taxi thiệt sang đến đón tôi. Tôi cũng mặc quần áo thiệt sang đi xuống. Chủ khách sạn ngạc nhiên thêm lần nữa, hỏi:
- Hôm nay đi đâu mà sang quá vậy?
Tôi đáp:
- Tôi đi dự buổi khiêu vũ tất niên tại trường.
- Vậy chúc hai người đi vui nhé!
Khi xe chở tôi và cổ đậu ở trường, tôi mở cửa, dắt tay cổ xuống, ai cũng ngẩn ngơ vì cổ quá đẹp. Tôi và cổ cùng nhảy những bản có tiết tấu chậm mà cổ yêu thích. Cổ nói:
- Từ trước giờ, ai muốn nhảy với tôi thì cứ để tiền trước mặt tôi. Trong những cuộc khiêu vũ đó, tôi chỉ như con vật chịu sự sai khiến của người khác. Còn hôm nay, tôi mới đích thực được khiêu vũ theo sở thích, khiêu vũ với người mình cảm tình. Một bước nhảy đều thật tuyệt vời, mỗi cử chỉ đều thật tình cảm. Tôi bỗng thấy mình giống như những cô gái bình thường khác. Ai muốn nhảy với tôi thì phải hỏi ý kiến anh. Anh đồng ý và tôi đồng ý nữa thì tôi mới nhảy với người đó. Cảm ơn anh đã cho tôi một đêm tuyệt vời. Ôi tôi vui quá!
Chúng tôi nhảy đến 2 giờ sáng, sắp sửa tạm biệt nhau thì cổ nói:
- Bây giờ nếu anh về nhà anh, tôi về nhà tôi thì cũng ngủ đến sáng. Anh vẫn sống cuộc đời bình thường nhưng tôi muốn được làm một cô gái bình thường thêm vài tiếng nữa.
Câu nói dễ thương ấy đã thuyết phục tôi. Tôi đi với cổ về nhà. Cổ mở dĩa hát nhạc cổ điển bản Sonate dưới ánh trăng của Beethoven rồi mang đến một chai sâm banh. Tôi thấy rất vui khi bỗng dưng có một cuộc đi chơi, nghe nhạc hay, ngắm trăng trong một căn nhà sang trọng.
Cổ hỏi:
- Bây giờ anh mở sâm banh hay tôi mở?
Tôi vốn mở sâm banh rất chuyên nghiệp. Tôi hỏi:
- Bây giờ cô muốn mở cho nút bắn lên trên không, nổ một tiếng thật to, hay nổ thật nhỏ mà nút nằm trong tay hay mở mà không có tiếng gì hết?
Cổ ngạc nhiên lắm:
- Trời đất ơi, tôi tưởng anh học chánh trị, biết đờn thôi vậy mà còn biết mở rượu, chắc anh ăn chơi cũng sành điệu lắm! Tôi muốn anh mở rượu sao cho tiếng nổ thiệt lớn, nắp bắn vào góc tường kia và đừng để rớt một giọt.
Tôi nghiêng chai rượu 45 độ, khui một cái, nổ một tiếng “bốc” thật to. Tôi rót rượu ra ly. Cổ nói:
- Tiếng nổ của sâm banh lúc nãy giống như tiếng hôn nồng cháy. Vậy tôi phải hôn anh…
Rồi cô hôn tôi, nụ hôn dứt bằng một tiếng “bốc”. Uống say rồi, cổ mới nói:
- Đêm nay là đêm tôi mời anh ở lại để chia sẻ cùng tôi một đêm dài. Tôi cảm tình với anh từ lúc anh chữa vết phỏng cho tôi. Khi đó, anh nhìn tôi bằng ánh mắt của người thầy thuốc chứ không phải ánh mắt thèm muốn của nhiều người đàn ông mà tôi từng gặp. Điều đó làm tôi xúc động. Trong đêm đi chơi này, anh cũng luôn tôn trọng tôi và làm người khác cũng tôn trọng tôi. Tôi muốn anh ở lại với tôi đêm nay. Tôi biết anh biết rằng tôi là gái điếm nên tôi xin đưa anh xem sổ khám bệnh của tôi.
Cuốn sổ ấy ghi rõ cổ không có bệnh. Như muốn tôi yên tâm hơn, cổ nói tiếp:
- Nếu anh còn lo lắng, tôi có những thứ anh có thể dùng để bảo vệ bản thân, miễn là đêm nay là đêm tình ta có với nhau thật trọn vẹn.
Tôi bảo:
- Nhưng tôi không đem theo đồ ngủ.
- Không sao anh à!
Rồi cô cởi đồ cho tôi, lấy chiếc áo ngủ thiệt đẹp của cổ bận cho tôi, dẫn tôi vào phòng tắm và bảo:
- Anh tắm đi rồi chúng ta nói chuyện tiếp…
Sau đó, tôi và cổ trải qua một đêm tình tuyệt vời. Hôm sau, mới 5 giờ sáng, cổ đã đi mua bánh, cà phê rồi mang đến tận giường cho tôi. Những điều đó làm cho tôi có cảm giác mình như một ông vua.
Ăn xong, chúng tôi nói chuyện đến 8 giờ thì tôi phải về. Tôi không thể về nhà khi đang mặc bộ quần áo đi khiêu vũ, vì như vậy người khác sẽ biết tôi đi chơi sáng đêm. Cổ mới cho tôi mượn cái áo choàng đi mưa để có thể che hết cả người tôi. Cổ kêu taxi đưa tôi đến sát cổng khách sạn nơi tôi ở rồi đưa tôi lên đến tận lầu. Lấy lại cái áo mang về, cổ hỏi:
- Chúng ta có thể gặp lại nhau không?
Tôi suy nghĩ và nói:
- Không! Cảm xúc tuyệt vời này chỉ có một lần mà không có lần thứ nhì. Cô sẽ sống lại cuộc đời của cô. Tôi sống lại cuộc đời của tôi.
Tôi nghĩ chuyện tình một đêm với cô kỹ nữ như một sự tình cờ, trời cho như vậy và chỉ một đêm như vậy thôi. Tôi tin rằng nếu ước ao có một lần thứ nhì như vậy thì cũng sẽ thất vọng khi không được như thế. Lần thứ nhì không thể có một đêm khiêu vũ trang trọng, lãng mạn như đêm đó.
Nếu gặp nhau vài lần nữa, tôi và cô ấy sẽ khám phá ra những điểm chưa toàn vẹn về nhau, thì cảm xúc, ấn tượng sẽ bị sứt mẻ. Cô ấy khát khao được làm một cô gái bình thường trong khoảng thời gian ngắn ngủi. Và tôi đã một lần cho cô ấy điều đó. Chưa chắc gì tôi có thể làm được điều đó lần thứ hai. Từ đó về sau, tôi và cô ấy gặp nhau trong tiệm cũng chào hỏi vui vẻ chứ không đi chơi với nhau.
Tôi biết phải đi tới đâu và dừng ở đâu trong những sự việc tương tự như vậy. Khi yêu, tôi yêu hết mình, biết tận hưởng, biết đắm say. Nhưng khi mọi việc kết thúc, tôi không bao giờ để cho mình bị say đắm và ghiền.
“Ố”
Vào những năm 60, tôi thành lập Trung tâm Học nhạc Đông phương để áp dụng phương pháp dạy nhạc truyền thống theo cách truyền khẩu, truyền ngón. Về âm nhạc Việt Nam, tôi đảm nhận việc dạy đờn tranh, đờn kìm và lý thuyết.
Về nhạc Ba Tư, tôi được giáo sư Barkeshli giới thiệu nhạc sĩ Dariouche Safvate dạy đờn tar, setar và santour. Giáo sư Hsu Tsang Hoei (Hứa Thường Huệ) giới thiệu cho tôi một cậu sinh viên Đài Loan biết đàn pipa (tì bà), gu zheng (cổ tranh), nanhu (nam hồ, một loại đờn nhị của Trung Quốc), Dizu (địch tử - ống sáo ngang của Trung Quốc), dong xiao (đồng tiêu), yang qin (dương cầm hay thường được gọi là tam thập lục).
Cậu định học Âm nhạc học tại đại học Sorbonne và nhờ tôi đỡ đầu để soạn luận án tiến sĩ với đầu đề: “Đàn pipa so sánh với các nhạc khí đồng loại”. Tôi rất vui vì cậu ấy biết sử dụng nhiều cây đờn, tuy nhiên chưa có cây đờn nào mà cậu có thể sử dụng đạt tới trình độ nghệ sĩ biểu diễn. Dầu sao, cậu vẫn đủ sức hướng dẫn cho các sinh viên bắt đầu nhập môn vào lĩnh vực âm nhạc truyền thống châu Á nên tôi giao phần dạy nhạc Trung Quốc cho cậu.
Một năm sau, mẹ của cậu đến gặp tôi và nói: “Tôi nghe giáo sư Hứa Thường Huệ nói rằng giáo sư đang đỡ đầu cho con trai tôi soạn luận án tiến sĩ. Tôi vô cùng xúc động và đến xin giáo sư coi nó như con vì nó mồ côi cha. Tôi là mẹ, chỉ thương con mà không đủ sức dạy con. Tôi xin được phép tặng cho trung tâm những nhạc khí dùng trong ban nhạc phụ họa cho kinh kịch, từ đàn kinh hồ đến bảng cổ, đại la, tiểu la, chập chõa, phách bản”.
Tôi rất xúc động, nắm tay bà mà trả lời: “Tôi hứa với bà rằng ngoài việc chỉ đạo nghiên cứu cho cháu soạn luận án tiến sĩ, tôi sẽ coi cháu như con và giúp đỡ cháu trong mọi sự trên đời”. Bà chảy nước mắt: “Mẹ con tôi mang ơn giáo sư suốt đời”.
Từ ngày đó, tôi hết lòng giúp đỡ cậu, giới thiệu cho cậu thay tôi dẫn chương trình trò chơi cuộc bầu cử thượng quan của nhà hàng La Table Du Mandarin, cho cậu tham gia vào chương trình hòa nhạc châu Á mà tôi tổ chức hàng năm tại đại giảng đường đại học Sorbonne.
Đến khi Trung tâm Nghiên cứu khoa học quốc gia Pháp cho phép tôi đề nghị người cộng sự khi tôi lên chức vị nghiên cứu sư (Maitre de Recherche) thì tôi đã đưa hai tên: cậu sinh viên đó và con gái tôi. Cậu trong chức vị phụ tá nghiên cứu và con gái tôi là thư ký văn phòng. Tôi giúp cậu bảo vệ thành công luận án tiến sĩ sau 5 năm học tập và tập sự với tôi tại đại học Sorbonne và tại Trung tâm Học nhạc Đông phương.
Nhờ lời giới thiệu nồng hậu của tôi, cậu được vào ngạch chuyên gia của Trung tâm Nghiên cứu khoa học quốc gia Pháp. Tuy cậu làm việc rất chậm nhưng vì coi cậu như con, tôi hết lòng che chở, giúp sửa bản thảo những báo cáo khoa học, sửa lỗi chánh tả trong những thư từ cậu ấy viết thay tôi để gởi đến các cơ quan nghiên cứu trên thế giới…
Sau ba năm làm việc, cậu bắt đầu làm theo ý mình như buổi sáng thường gọi điện thoại cho tôi, báo rằng sẽ đến trễ vì ngoài đường kẹt xe hay có hôm, cậu báo tin xin nghỉ đột xuất để lo giấy tờ cho nhạc phụ đến từ Đài Loan… Tôi nhiều lần cho cậu biết rằng mặc dầu tôi thương cậu như con nhưng công việc làm của cậu còn quá chậm chạp, hiệu quả rất thấp. Cậu lại thường vắng mặt nên trong bảng đánh giá công việc của nhân viên, tôi có quyền đề nghị một trong ba trường hợp: đình chỉ việc lên cấp, lên cấp theo thâm niên, lên cấp đặc biệt vì thăng thưởng. Năm nào tôi cũng phê vào bảng cho cậu “lên cấp theo thâm niên”.
Cậu có ý phàn nàn với tôi rằng bản thân tôi có sức làm việc phi thường nên không thể so sánh hiệu quả việc làm của tôi với những cộng sự. Tôi tưởng đâu cậu chỉ bất bình hay tủi thân. Nhưng một hôm, cậu lên nghiệp đoàn và than phiền rằng tôi là một thủ trưởng quá nghiêm khắc. Cậu nói rằng mọi người trong Trung tâm Nghiên cứu khoa học quốc gia Pháp đều biết tôi có sức làm việc phi thường mà tôi lại căn cứ vào bản thân để đánh giá người khác. Vì vậy, cậu làm với tôi lâu mà chưa lần nào tôi cho cậu lên chức mà không cần thâm niên.
Nghiệp đoàn nghe có lý nên mời tôi lên và yêu cầu tôi đối với nhân viên không nên nghiêm khắc quá. Tôi bắt buộc phải đưa ra những bức thư cậu ấy viết thay tôi, đầy lỗi chánh tả và văn phạm mà mỗi khi sửa những lỗi đó, tôi mất thời gian gần bằng hoặc nhiều hơn khi tôi tự viết thư.
Tôi kể ra những lúc cậu tự phép nghỉ vì công việc riêng mà không đợi sự ưng thuận của tôi nhưng tôi vẫn thông cảm và không cho đó là lỗi trong công việc.
Sau đó, những người trong nghiệp đoàn đều cho là tôi rất khoan hồng và bênh vực cộng sự vì trong hoàn cảnh của cậu, tôi có quyền chống lại sự lên chức theo thâm niên, nhưng tôi đã không làm. Nghiệp đoàn không có lời khiển trách tôi và ngược lại, khuyên cậu nên cố gắng làm việc có kỷ luật và hiệu quả hơn nữa.
Sau vụ việc đó, đứng về địa vị một người thủ trưởng khi một người cộng sự đi kiện mình, tôi có quyền đề nghị Trung tâm Nghiên cứu khoa học quốc gia Pháp sa thải cậu. Nhưng tôi không làm vì biết rõ sẽ không có cơ quan nào trong trung tâm tiếp nhận cậu làm người cộng sự, cậu sẽ lâm vào cảnh thất nghiệp. Tôi thương cậu có hai con còn nhỏ nên sẵn sàng đứng ra bảo lãnh để cậu có thể mượn tiền của cơ quan chánh phủ để mua nhà. Tôi cũng luôn luôn bảo vệ cậu đến tận ngày tôi về hưu. Ngày nay, cậu đã có nhiều kinh nghiệm và được các trường đại học của Đài Loan, Nhựt Bổn mời làm giáo sư biệt thỉnh.
Chúng ta không nên vì những bất mãn trong nghề nghiệp mà làm tổn thương đến tình cảm giữa người với người.
90 năm cuộc đời, tôi thấy niềm vui nhiều hơn nỗi buồn. Tôi nghĩ rằng làm chủ bản thân trước những hỉ nộ ái ố là điều quan trọng để bạn có thể thực hiện được những điều mình mong muốn và có một cuộc sống buồn ít hơn vui.

Những câu chuyện từ trái tim (phần 6)
Không phải bất cứ lúc nào cuộc sống cũng thuận lợi cho chúng ta. Cũng có lúc mọi việc 'xuôi chèo, mát mái' nhưng cũng có lúc xảy ra những bất ngờ không như mong đợi. Biết thích nghi với hoàn cảnh, chúng ta sẽ vượt qua những rào cản và đi đến thành công.
Chuyện số 6
Tùy cơ ứng biến
Bạn trẻ thân mến, biết tùy cơ ứng biến trong cuộc sống, bạn sẽ có thể vượt qua những tình huống khó khăn, chuyển bại thành thắng, biến cái dở thành cái hay. Phải biết thích nghi với hoàn cảnh chứ không phải luôn mong muốn hoàn cảnh phù hợp với mình.
Dưới đây là vài tình huống mà nhờ tùy cơ ứng biến, tôi đã đạt được kết quả tốt đẹp.
Khi đờn đứt dây…
Năm 1982, khi tôi đang biểu diễn đờn tranh tại một nhà hát của thị trấn Vitry-sur-Seine (Pháp) thì đứt dây liu - hò. Đó là dây cơ bản khó mượn chữ. Khi đứt dây đờn, tôi giựt mình giây lát và biết rằng không thể đờn tiếp nữa.
Tôi dừng lại và nói với khán giả: “Thưa quý vị, theo truyền thống Á Đông, khi đang đờn mà đứt dây đờn là có thể có người đang trộm nghe và nghe rất chăm chú. Như ngày xưa, Bá Nha đang đờn thì đứt dây, cho người tìm kiếm khắp nơi thì thấy một người đang núp trong bóng tối mà nghe đờn, vai đeo một chiếc rìu. Quân nhân tưởng người này có ác ý, bèn bắt đem ra trước Bá Nha. Người này nói: “Tôi là Tử Kỳ, mới đốn củi trên núi về, nghe tiếng đờn hay quá nên lén lắng nghe”. Quý vị thấy đó, hôm nay, đờn đứt dây tức là có thính giả nào đó đang nghe rất chăm chú, quyết lòng nghe. Tôi xin cảm ơn thính giả nào đó và cũng xin lỗi quý vị vì đứt dây đờn”.
Trong khi khán giả tập trung lắng nghe câu chuyện Bá Nha - Tử Kỳ thì tôi nhanh nhẹn vuốt, kéo dây đờn. Chuyện kể xong thì cũng là lúc dây đờn được thay xong. Tôi nói tiếp: “Bây giờ, xin mời quý vị nghe tiếp nhưng xin quý vị đừng lắng nghe quá chăm chú để dây đờn không bị đứt lần nữa”. Khán giả cười và vỗ tay rần rần.
Nhờ miệng vừa thuật chuyện, gương mặt vẫn cười, tay thì nhanh nhẹn sửa dây đờn mà tôi hóa giải được tình huống đó. Ngoài ra, tôi còn làm khán giả thích thú vì nghe được chuyện hay và được người chơi đờn đánh giá là người biết nghe, chăm chỉ nghe đờn. Nếu như lúc đó tôi chỉ xin lỗi khán giả rồi lo sửa dây đờn thì chắc chắn sự hào hứng của khán giả sẽ giảm xuống.
Những ngẫu hứng với trích đoạn "Lữ Bố hí Điêu Thuyền”
Năm 1964, trong lúc tham gia vào ban tổ chức Hội nghị Quốc tế về nhạc kịch thế giới tại thành phố Hamburg (Đức) với tư cách một thành viên của ban chấp hành Hội đồng Quốc tế âm nhạc (thuộc UNESCO), tôi rất khổ tâm khi thấy gần 50 nước trên thế giới tham dự mà Việt Nam không góp mặt vì lúc ấy đang chìm trong khói lửa. Chánh quyền hai miền Nam Bắc không ai có thời gian suy nghĩ đến văn hóa, nhứt là giao lưu văn hóa với quốc tế.
Nhưng với cương vị là người Việt Nam, là thành viên ban chấp hành Hội đồng Quốc tế âm nhạc, tôi có quyền đề cử một đoàn tham dự để kịch nghệ Việt Nam góp mặt với các nước. Tôi đã ghi tên thuyết trình về những nét đặc thù của kịch nghệ Đông Á (Trung Quốc, Nhựt Bổn, Việt Nam) nhưng để minh họa cho kịch nghệ Việt Nam thì không có ai. Lúc ấy chưa có phim ảnh nào ghi hình và âm thanh một buổi hát chèo, một tuồng hát bội hay vở cải lương.
Trong thời gian đó, tôi đang làm cố vấn nghệ thuật cho chương trình ca vũ kịch Việt Nam tại nhà hàng La Table Du Mandarin do anh Phạm Văn Mười làm chủ. Năm 1964, Kim Cương sang Pháp tu nghiệp về kịch trường, cô Bảy Phùng Há cũng sang Pháp để lánh khỏi không khí chánh trị tại miền Nam. Không muốn nhờ vả ai nên cô Bảy Phùng Há phải tự kiếm cách sinh sống và ở Pháp để thăm viếng con gái và cháu ngoại. Cô Bảy và Kim Cương cùng dựng lại một trích đoạn ngắn của lớp Lữ Bố hí Điêu Thuyền để diễn trong chương trình nghệ thuật tại quán ăn của anh Phạm Văn Mười.
Sân khấu của La Table du Mandarin không quá sáu thước vuông, vậy mà hai nghệ sĩ lớn sắp đặt bước đi, các điệu múa gói gọn vào sân khấu nhỏ ấy, thu hút khán thính giả vốn đa số là người nước ngoài đến thưởng thức mỗi đêm. Dàn nhạc phụ họa do anh Nguyễn Văn Thông, anh Danh phụ trách. Phận sự chánh của tôi tại đây là giới thiệu kịch nghệ Việt Nam và tóm tắt vở tuồng bằng tiếng Pháp hoặc tiếng Anh cho thực khách quốc tế nghe.
Một hôm, sau khi chương trình nghệ thuật bế mạc, tôi ăn cháo khuya với cô Bảy và bày tỏ băn khoăn của mình khi kịch nghệ Việt Nam không góp mặt trong Hội nghị Quốc tế về nhạc kịch thế giới tại thành phố Hamburg. Cô Bảy cũng xót xa lắm vì điều này.
Tôi ngỏ ý đem tiết mục Lữ Bố hí Điêu Thuyền tham dự hội nghị, cô Bảy đưa hai tay lên trời nói: “Không được đâu anh Hai ơi! Người ta đem cả đoàn với mấy chục diễn viên, lại nghe nói Đài Loan gởi một cuộn phim ghi hình ghi âm vở Phụng Nghi Đình, Nhựt Bổn gởi một đoàn hát nô tiếng tăm, các đoàn nhạc kịch của Campuchia, Thái Lan và Indonesia thì giới thiệu những vũ khúc phỏng theo truyền thuyết Ramayana. Mặc dầu tôi cũng xốn xang như anh Hai, nhưng chỉ có Kim Cương và tôi, vừa không tranh cảnh lại không có dàn nhạc cho những lúc trống xổ, chấm câu, trụ bộ… Trời ơi, một con én làm sao đem lại mùa xuân hả anh Hai?”.
Tôi thuyết phục: “Chúng ta tuy ít người nhưng giàu nghị lực, phong phú trong nghệ thuật, lại có con tim rung động mãnh liệt vì tình yêu đất nước và văn hóa Việt Nam. Nếu Cô Bảy chịu cùng tôi suy nghĩ, bàn bạc thêm thì tôi tin rằng với quyết tâm, chúng ta sẽ từ cái không làm ra có, cái khó làm ra dễ”.
Cô Bảy xiêu lòng: “Anh Hai cứ đề xướng mọi việc, tôi góp ý về nghệ thuật diễn xuất và chúng ta sẽ cùng nhau giải quyết từng điểm khó”.
Trong vòng 10 ngày, cô và tôi lựa lớp tuồng rồi tập với Kim Cương cho nhuần nhuyễn. Khi bàn đến phần âm nhạc phụ họa là trở lực lớn nhứt, thì tôi phải thán phục sáng kiến của cô Bảy. Nhạc công chỉ có anh Danh, một người lính thợ biết đờn kìm và ghi ta móc phím, cô Bảy đề nghị anh Danh và tôi xem buổi diễn rồi hòa đờn theo, tôi lãnh phần đờn tranh và đờn cò, đến lúc đánh trống thì tôi giữ tay trống, anh Danh đánh chập chõa. Bài bản không khó lắm vì chỉ rao cho “nói lối” và vô bản Khốc Hoàng Thiên, nhưng khó nhứt là canh sao cho đúng lúc cô Bảy sắp “trụ bộ” để chúng tôi đánh “tắc xà” cho khớp. Biết tôi băn khoăn, cô Bảy nói ngay: “Anh Hai cứ việc xổ trống theo bước đi của tôi. Trước khi trụ bộ, tôi hét to một tiếng “hê” thì anh Hai nhịp “tắc xà” liền”.
Chúng tôi tập thử “hê… tắc xà”, “hê… tắc xà” rồi ghi vào cuộn băng, để lúc cô Bảy múa thật, khi nghe trong cuộn băng có tiếng “hê” là cô trụ bộ. Hai bên trống với chập chõa và điệu múa của Lữ Bố khớp với nhau y như có dàn nhạc thật phụ họa cho diễn viên. Sau khi tập đi tập lại nhiều lần thật nhuần nhuyễn, cô Bảy và tôi nắm tay nhau cười đắc chí và quyết định giới thiệu tiết mục đó tại nhạc hội.
Trong những ngày tập dợt, chúng tôi vẫn ưu tư chưa biết làm sao xoay xở tiền mua vé máy bay từ Paris sang Hamburg cho cô Bảy và Kim Cương. Thêm một nỗi lo âu nữa là chẳng biết chủ hiệu ăn có bằng lòng cho cô Bảy và Kim Cương vắng mặt đến bốn ngày để tham gia chương trình hay không.
Không ngờ, lúc mời anh Phạm Văn Mười đến xem cô Bảy và Kim Cương biểu diễn với lời giới thiệu của tôi và dàn nhạc phụ họa ghi trong băng, anh khen nức nở, chẳng những bằng lòng cho cô Bảy và Kim Cương đi dự hội nghị mà còn hào phóng tặng hai vé máy bay khứ hồi cộng thêm khoản tiền chi phí ăn ở tại một khách sạn lớn ở Hamburg. Phần tôi thì vé máy bay và khách sạn đều do Hội nghị Quốc tế đài thọ vì là người trong ban tổ chức.
Mọi việc êm xuôi, cô Bảy nhìn tôi cười nói: “Đúng như lời anh Hai, nếu quyết tâm thì từ không chúng ta làm có, từ khó biến thành dễ. Hai anh em mình đã lo xong phần nghệ thuật, lại có được một mạnh thường quân giải quyết phí tổn. Rõ ràng Trời Phật phù hộ chúng ta”.
Gần đến ngày hội nghị khai mạc lại có chuyện bất ngờ xảy ra: tôi không thể đáp cùng chuyến máy bay với cô Bảy và Kim Cương mà phải lên đường trước bốn ngày để họp ban chấp hành và lo việc tổ chức. Cô Bảy than: “Đi ra nước ngoài, nhứt là sang Đức mà không có anh Hai, chắc hai má con tôi không dám đi, vì tiếng Đức không biết mà tiếng Anh cũng chẳng rành”.
Tôi trấn an: “Cô Bảy đừng lo. Tôi sẽ viết một cẩm nang ghi sẵn những câu mà cảnh sát biên phòng và công an thường hỏi lúc làm thủ tục nhập cảnh như: bà từ đâu tới, tên gì, mục đích khi đến nước Đức, sẽ ở tại đâu, trong thời gian bao lâu”.
Tôi cẩn thận viết ra, phần đầu là những câu tiếng Việt, phần sau là tiếng Đức và dặn cô Bảy chỉ cần đưa cẩm nang cho công an hay hải quan tại phi trường, hễ họ chỉ vào câu số 1, 2 hay 3 thì cô sẽ chỉ vào câu trả lời tương ứng. Chúng tôi tập thử, tôi đóng vai cảnh sát vừa hỏi bằng tiếng Đức vừa chỉ vào câu số 1, 2, 3… cô Bảy đều chỉ đúng câu trả lời. Cô vui vẻ cười khen rằng: “Anh Hai có phép màu, biến một người dốt đặc tiếng Đức có thể “trả lời” những câu hỏi của công an tại phi trường Đức”.
Rốt cuộc, cô Bảy và Kim Cương qua cửa khẩu Hamburg dễ dàng. Hôm ra phi trường đón cô Bảy và Kim Cương, tôi cũng phập phồng lo sợ, đến lúc thấy hai người xuất hiện tươi cười vẫy tay chào, tôi mới an lòng. Về đến nơi, tôi đề nghị khách sạn sắp xếp cho cô Bảy và Kim Cương ở cạnh phòng tôi.
Vừa đến nơi, cô Bảy yêu cầu tôi đưa đến sân khấu để diễn thử một lớp tuồng. Kim Cương nghe vậy bèn nói: “Một nghệ sĩ bậc thầy như má thì cần gì phải tập trước, với lại mình chỉ diễn một trích đoạn nhỏ thôi chớ đâu phải diễn cả một vở tuồng”. Cô Bảy nói: “Không con à, mình ghi băng nhạc theo cách đi của má trong một sân khấu nhỏ tại Paris, hôm nay diễn ở một sân khấu lớn thì mình phải tập thử để bước đi không gượng gạo và ăn khớp với nhạc. Trên sân khấu bình thường thì nhạc phải đi theo tiết tấu của người diễn, trong hoàn cảnh của chúng ta thì ngược lại, người diễn phải thích nghi với tiết tấu của băng nhạc”. Điều này làm tôi hết sức khâm phục tinh thần nghề nghiệp của cô Bảy.
Cô Bảy còn than thở trên máy bay người ta dọn khoai tây luộc, bắp cải chua theo phong cách của Đức nên cô nuốt không vô. Cô lo lắng: “Nếu không có thức ăn hạp khẩu vị mà ngày nào cũng phải ăn khoai tây luộc, chắc tôi không đủ sức để biểu diễn”. Tôi khuyên cô đừng có thành kiến với khoai tây luộc mà hãy thử nhai thật chậm để nhấm nháp hương vị ngon ngọt của nó. Rốt cuộc, những ngày sau đó bữa ăn nào Cô Bảy cũng đề nghị dọn cho mình một dĩa khoai tây luộc.
Đến hôm diễn, tôi giới thiệu màn Lữ Bố (do Cô Bảy đóng vai) đi tìm Điêu Thuyền (do Kim Cương đóng vai), khi đến Phụng Nghi Đình, Điêu Thuyền ở bên kia cầu, Lữ Bố băng qua bế Điêu Thuyền trên tay rồi cả hai đồng ca bài Khốc Hoàng Thiên.
Kim Cương đóng vai Điêu Thuyền nũng nịu và rơi nước mắt với diễn xuất thần tình, khán giả vỗ tay rất lâu khiến Kim Cương thích chí nũng nịu thêm một lần nữa. Cô Bảy hoảng kinh khi nghe đờn đã bắt đầu vô bản Khốc Hoàng Thiên mà Điêu Thuyền còn tiếp tục khóc, vậy là Lữ Bố không thể chậm rãi qua cầu theo nhịp hát nữa. Rất lanh trí, cô Bảy dậm chân trên mặt sàn rồi nhảy phốc một bước qua cầu, ôm Điêu Thuyền trên tay để ca cho kịp bài Khốc Hoàng Thiên. Toàn thể khán giả nhứt loạt vỗ tay khen ngợi màn biểu diễn xuất thần. Về sau, khi tường thuật về các tiết mục biểu diễn phục vụ Hội nghị, báo chí đều nhận định tiết mục của Việt Nam là cây đinh của chương trình.
Đêm đó, sau khi dự tiệc rượu, ra về thì trời đã khuya. Biết rằng không thể ngủ được vì vui, cô Bảy rủ tôi lang thang qua các đường phố dưới màn mưa lất phất rơi cho đến gần hai giờ sáng. Thỉnh thoảng, cô quay nhìn tôi với đôi mắt ướt lệ mà nói: “Sung sướng quá anh Hai ơi!”.
Cô Bảy đã cố gắng dựng một chương trình biểu diễn cải lương khi chỉ có hai nghệ sĩ và một cuộn băng ghi âm. Trong đời cô Bảy chưa có bao giờ gặp một cảnh khó như thế. Lúc đầu, cô không nghĩ rằng có thể thực hiện được nhưng sau khi thấy cần có một tiết mục để cho nước Việt Nam góp mặt với bạn bè thế giới trong Hội nghị Quốc tế về nhạc kịch thế giới thì trong 10 ngày, cô cùng tôi tìm mọi cách giải quyết hết những khó khăn. Cô đã cố gắng phát huy óc sáng kiến để vượt qua những khó khăn về ngôn ngữ, thức ăn không quen miệng, tìm cách đi, đứng, nhảy múa sao cho tự nhiên trên một sân khấu mới…
Từ câu chuyện này, tôi muốn nêu ra một thí dụ cụ thể của một người nghệ sĩ lớn ngoài tài nghệ còn có những đức tánh mà bạn trẻ nên noi theo. Một là, khi gặp khó khăn, không bao giờ bó tay mà phải quyết tâm tùy cơ ứng biến để vượt qua. Hai là, phải biết thích nghi với hoàn cảnh. Ba là, nên có lương tâm nghề nghiệp không bao giờ tự mãn với kinh nghiệm của mình mà luôn luôn phải luyện tập nhiều và khi đến một sân khấu lạ cũng cố gắng diễn tập một lần để không bị bỡ ngỡ trước ngoại cảnh khác.
Bộ lễ phục Ấn Độ "chữa cháy"
Năm 1979, tôi đi biểu diễn tại hai địa điểm ở Bombay (Ấn Độ), nhưng trước khi đến Bombay, tôi phải dự một hội nghị tại Hyderabad ở miền Nam Ấn Độ. Muốn đi từ Paris đến Hyderabad, tôi phải đi máy bay đến New Delhi - thủ đô của Ấn Độ - để đổi máy bay bay đến Hyderabad. Nhưng khi đến Tehran thì máy bay cháy cánh và tôi phải ở lại sân bay Tehran. Khi lấy hành lý thì tôi không thấy va li của tôi đâu, tôi báo với nhân viên thì được trả lời: “Ông không phải người đi tới Tehran, việc mất hành lý thuộc trách nhiệm của Air France”. Tôi phải ở lại một ngày một đêm trong phi trường, không có quần áo để thay.
Từ Tehran đến New Delhi không có máy bay của Air France mà chỉ có máy bay Pan American, tôi may mắn đi được chuyến bay đó. Khi đến sân bay New Delhi, tôi cũng yêu cầu nhân viên xác nhận việc tôi bị mất hành lý và tìm dùm tôi một khách sạn để nghỉ ngơi. 6 tháng sau tôi mới tìm lại được chiếc va li này.
Tại New Delhi, quần áo tôi đã dơ quá rồi, tôi chỉ mang theo kem đánh răng và bàn chải, ngay cả dao cạo cũng không có. Tôi đi mua những thứ cần dùng thì không may New Delhi sắp lụt, không ai buôn bán gì. Tối đó, tôi đành đi ngủ với bộ quần dơ. Nhân viên khách sạn còn nói: “Ông cứ ngủ, đến khi nào tôi báo động thì ông chạy xuống để đi tránh lụt”.
Hôm sau, khi tôi đến được Hyderabad thì đã khoảng 4 giờ chiều, trễ hơn một ngày so với kế hoạch, tôi lại định đi mua những thứ cần dùng thì ban tổ chức bảo tôi phải phát biểu ngay trong hội nghị vì không còn thời gian nữa. Khi vào tôi nói: “Trên đường đi tôi mất va li nên hôm nay ăn mặc không đúng trang phục của người dự hội nghị, thành thật xin lỗi quý vị”. Bài nói chuyện của tôi hôm đó cũng được mọi người hoan nghinh lắm.
Sau đó, tôi nói với ban tổ chức tôi cần đi mua quần áo thì họ nói bây giờ đang là tháng chay Ramadan, đến 17 giờ, cả thành phố ngưng các công việc và mọi người đọc kinh Koran nên tôi không mua được gì. Đêm đó, tôi đi ngủ mà vẫn mặc bộ đồ đã mặc mấy ngày nay.
Sáng hôm sau, tôi đi mua quần áo nhưng lại tiếp tục bất ngờ vì thành phố này không bán quần áo phương Tây, tôi chỉ mua được bốn chiếc áo Ấn Độ. Tôi tiếp tục lo lắng vì không thể mặc vậy mà đi dạy ở hàn lâm viện và xuất hiện trên Đài Phát thanh truyền hình Ấn Độ.
Chưa biết tính sao thì tiến sĩ Narayana Menon - giám đốc Đài Phát thanh truyền hình Ấn Độ - bạn thân của tôi - nói rằng: “Chiều nay giáo sư biểu diễn nhạc Việt Nam trên truyền hình mà bận quần tây thì không được, huống chi mặc quần tây và áo thường ngày của Ấn Độ. Để tôi mua cho giáo sư một chiếc lễ phục thượng hạng của nhạc sĩ Ấn Độ”. Tôi nói: “Tôi biểu diễn đờn Việt Nam mà mặc áo Ấn Độ sao được!”. Tiến sĩ Narayana Menon nói: “Không sao, tôi sẽ có cách giới thiệu giáo sư”.
Khi chương trình bắt đầu, tiến sĩ Narayana Menon giới thiệu: “Thưa quý vị, GS.TS Trần Văn Khê là người Việt Nam nhưng đã giới thiệu nhạc Ấn Độ ở Pháp cho người Pháp nghe, thành ra nghệ sĩ Ấn Độ mang ơn GS.TS Trần Văn Khê. Biết GS.TS Trần Văn Khê đến đây, các nghệ sĩ Ấn Độ đã tặng GS.TS Trần Văn Khê một bộ lễ phục của nghệ sĩ Ấn Độ như một lời cảm ơn. Hôm nay, để tỏ tình thân thiện với người nghệ sĩ Ấn Độ, GS.TS Trần Văn Khê sẽ mặc lễ phục Ấn Độ biểu diễn nhạc truyền thống Việt Nam”.
Khi tôi bước ra thì khán giả vỗ tay quá trời. Buổi diễn rất thành công.
Đó là một câu chuyện bắt đầu với những việc không hay nhưng sau đó lại rất hay, nhờ sự lanh trí của bạn tôi và sự bình tĩnh của tôi. “Ngộ biến tùng quyền”, chuyển bại thành thắng là vậy.
Khi thính đường mất điện
Trong quá trình giảng dạy có thể có những trục trặc xảy ra, trong tình huống đó, người thầy phải tùy cơ ứng biến.
Năm 1961, khi tôi đang thuyết trình về âm nhạc tại một trường đại học bên Nhựt Bổn thì tự nhiên mất điện. Chuyên gia đến sửa và cho biết phải hơn nửa giờ mới xong. Tôi sắp rời Nhựt Bổn để trở về Pháp, nếu phải đợi có đủ điều kiện mới thuyết giảng e rằng không nói đủ nội dung bài giảng trước khi ra về.
Tôi liền mời sinh viên không ngồi rải rác trong giảng đường mà tụ họp lên phía trên. Tôi không ngồi ở bục giảng mà ngồi giữa các sinh viên. Tôi chỉ cần cố gắng nói to hơn là các em có thể nghe được đầy đủ. Nhờ vậy mà đến ngày ra về, tôi hoàn tất những bài giảng theo dự định và hoàn thành nhiệm vụ.
Linh hoạt với cây đờn kayagum
Trong đời, khó tránh khỏi những lúc xảy ra tình huống bất ngờ. Đó không phải là lúc chúng ta trách cứ hoàn cảnh mà phải linh hoạt giải quyết vấn đề.
Năm 1983, tại hội nghị quốc tế do Hội đồng Quốc tế âm nhạc thuộc UNESCO và Hội đồng Âm nhạc quốc gia của CHDCND Triều Tiên tổ chức, tôi có phận sự chánh là đại diện Hội đồng Quốc tế đọc diễn văn trong buổi khai mạc và bế mạc, chủ tọa ban tuyển lựa các tiết mục xuất sắc và hội thảo khoa học về Âm nhạc truyền thống châu Á.
Tôi không nghĩ rằng mình phải biểu diễn nên không đem đờn tranh theo. Khi ban tổ chức tại Bình Nhưỡng khẩn khoản mời tôi tham gia chương trình biểu diễn nghệ thuật, tôi đề nghị cách ngâm thơ của người Việt để vừa giới thiệu những câu thơ kiệt tác trong Truyện Kiều, vừa giới thiệu cách đờn phụ họa cho nghệ thuật ngâm thơ.
Nếu ngâm mà không minh họa thì cũng như bạn ăn bì bún mà không có nước mắm ngon. Tôi nghĩ ra cách mượn một cây đờn kayagum cổ (đờn tranh của người Triều Tiên), lên dây theo hơi sa mạc và tập luyện cách phụ họa thơ trên một nhạc khí gần với đờn tranh mà không phải là đờn tranh. Tôi nhờ một nghệ sĩ Triều Tiên chỉ tôi cách lên và chỉnh dây, vài thủ pháp đặc biệt để tôi có thể dùng cây đờn kayagum mà không ngượng nghịu và lỡ dây đàn sai trong lúc biểu diễn thì tôi biết cách tự điều chỉnh lại. Nhờ cố gắng thích nghi với hoàn cảnh mà buổi diễn đó của tôi rất thành công.
Nói thật mà không làm mất lòng
Sự tùy cơ ứng biến trong lời nói cũng giúp tôi giải quyết được nhiều tình huống.
Năm 1983, với tư cách thành viên thường trực Hội đồng Quốc tế âm nhạc của UNESCO, tôi tham dự một diễn đàn âm nhạc châu Á tại Bình Nhưỡng (CHDCND Triều Tiên). Tất cả chương trình quan trọng nào họ cũng mời tôi ra phát biểu. Đêm đó, chánh phủ giới thiệu loại opera mà họ gọi là opera mới, trong đó, có một ban hợp xướng nam nữ hát những bài ca giới thiệu những chuyển cảnh, thứ hai là trong dàn nhạc có để hai ba nhạc cụ dân tộc như đờn kayagum, ống piri, opera cũng không theo hình thức phương Tây, ráp bản ca này với bản ca khác, múa cũng không phải múa theo ba lê cho opera. Vì vậy, tuy hình thức là opera những nội dung thì không có gì giống opera phương Tây. Tôi thấy vở diễn không hay, không đúng hình thức opera. Tôi lắc đầu, bạn bè cũng trêu: “Xem thử ông nói làm sao, coi chừng ngày mai bị ăn muối đó!”.
Khi lên phát biểu, tôi nói: “Thưa quý vị quan khách, tôi không có cảm giác như đang xem đại ca kịch, bởi không có những bài hát đặc biệt, những điệu múa đặc biệt của opera. Thành ra, đây không phải buổi biểu diễn của đại ca kịch mà là nhiều ban dân ca ráp lại, có thể thôi thúc sự hiếu kỳ của ai muốn tìm hiểu ban dân ca là thế nào. Nhưng tôi đã học được bài học chánh trị rất sâu sắc vì buổi biểu diễn cho ta thấy, khi cường hào ác bá hà hiếp nông dân thì nông dân sẽ đứng lên chống lại, khi đất nước bị xâm lược thì nhân dân sẽ đứng lên chống giặc, bảo vệ độc lập. Tôi nhận ra bài học chánh trị rất thâm thúy. Xin cảm ơn các nghệ sĩ vì không chỉ biểu diễn nghệ thuật cho chúng tôi xem mà biểu diễn để tôi hiểu thêm về một bài học chánh trị thì quý vị không chỉ là nghệ sĩ mà còn là chiến sĩ cách mạng. Về vở diễn, tôi thấy không giống như đại ca kịch mà tôi biết nên tôi xin phép không nhận xét ở đây”.
Nhưng có một thành viên trong ban tổ chức nói: “Xin ông cho biết ý kiến về buổi diễn hôm nay, có những cái mới của chúng tôi như ban hợp xướng, chưa có dàn nhạc giao hưởng nào mà có hai nhạc cụ dân tộc chen vô”.
Tôi nói: “Trên sân khấu mà có một ban hợp xướng để giới thiệu chuyển cảnh hay một nhân vật thì không phải là chuyện mới. Thứ nhứt là cổ Hy Lạp đã có rồi, thứ nhì là hát nô của Nhựt Bổn đã có 12 người đàn ông ngồi mang tên Jiuta, hát chèo Việt Nam có tiếng đế - đó là một nhóm nghệ sĩ hát lên để đối thoại với nhân vật, diễn tả tâm trạng nhân vật, nói lên tiếng nói lương tâm của dân chúng. Nhưng quý vị có cái mới là đàn ông và đàn bà cùng tham gia hợp xướng chứ không chỉ có đàn ông không thôi, không chỉ hát chuyển cảnh và còn diễn tả nhân vật, đó là sự phối hợp các nét của các nước khác”.
Tôi nói tiếp: “Đem nhạc cụ dân tộc vào dàn giao hưởng thì chúng tôi thấy rằng một cây đờn kayagum và ống piri thì không đủ thể hiện bản sắc dân tộc Triều Tiên vì một con chim én không mang lại mùa xuân. Nhưng ý tốt của quý vị là dám để đờn dân tộc vào dàn nhạc giao hưởng vốn của nước ngoài, tức là có một chút của mình trong đó. Bây giờ quý vị thể nghiệm để rút kinh nghiệm nên chúng tôi chưa phê bình. Chừng nào quý vị nói đây là dàn nhạc hoàn hảo nhứt rồi thì chúng tôi sẽ phê bình”. Vậy là những người đi cùng đoàn UNESCO ai cũng mừng, thở phào.
Vài hôm sau, tôi chủ tọa trong một buổi thảo luận về cải tiến nhạc cụ dân tộc, họ sửa cây đờn kayagum từ nhỏ thành ra lớn, từ 12 dây tăng lên 15, 16 dây, ống piri thì có những khóa thay đổi để có thể thổi cả nhạc Tây. Họ rất hãnh diện về việc đó.
Tôi là chủ tọa, chỉ điều hành buổi họp chớ không bắt buộc phải tham luận, nhưng những người làm việc đổi mới nhạc cụ bày tỏ mong muốn nghe ý kiến của tôi. Tôi nói: “Thưa quý vị, nếu muốn tôi tham luận, xin cho tôi dài dòng một chút. Thứ nhứt là cải tiến nhạc cụ là việc nên hay không nên. Thật ra, các nước khác đều làm việc này hết rồi. Tôi xin nêu hai thí dụ thành công, thí dụ đầu tiên là vào thế kỷ 12, ông Amir Kushru người gốc Ba Tư biết đờn setar, mà đờn setar trước kia có 3 dây, sau này là 4 dây. Ông Amir Kushru qua Ấn Độ thấy đờn nhạc Ấn Độ mà dùng cây đờn 3 dây thì không đủ, ông chuyển thành đờn 7 dây gọi là sitar. Ông đã đổi mới và nhiều người tiếp sau cũng góp sức đổi mới, nên cây đời sitar hiện nay rất tuyệt vời.
Hay như đàn ud của Ả Rập, ngày xưa có 4 dây, tượng trưng cho nước - lửa - đất - khí trời. Vào cuối thể kỷ 19, có ông Zyriab là học trò của Ishaq El Mawsili vốn rất nổi tiếng. Vua nước đó rất thích nghe đờn ud, mỗi lần nghe ai đờn hay sẽ thưởng cho người đó một nén vàng.
Hôm đó, vua bảo Zyriab hãy lấy đờn của thầy Ishaq El Mawsili đờn cho vua nghe. Zyriab nói đại vương muốn nghe đờn thôi hay vừa đờn vừa hát. Nếu vừa đờn vừa hát thì cho tôi dùng cây đờn của tôi. Vua nói đờn của thầy ngươi đẹp nhất nước sao không dùng mà dùng đờn của ngươi. Zyriab nói đờn của thầy tôi thấp hơn giọng tôi hai bậc, mà nếu lên dây để đờn đúng giọng tôi thì đờn đứt dây. Dây đờn của tôi không làm gân trừu mà làm bằng gân con sư tử con. Đờn của tôi không phải 4 dây tượng trưng cho đất, nước, lửa, khí trời là 4 yếu tố của vũ trụ mà có 5 dây, tôi đã làm thêm dây thứ năm tượng trưng cho con người ở giữa bốn yếu tố của vũ trụ. Zyriab đờn ca rất hay, được vua thưởng một nén vàng.
Tối đó, Zyriab gặp thầy và hỏi chiều nay con đờn hay không. Thầy nói, con đờn quá hay, nhưng thầy nhắc con một việc, tại Bagdad này không thể có hai Ishaq El Mawsili. Tối hôm đó, Zyriab rời Bagdad đến Bắc Phi, lập nên trường phái đờn khác, chi nhánh của trường phái Ả Rập. Sau đó, đờn ud phát triển lên đến 6 dây, đó là một sự đổi mới rất hay, được nhiều người khen tặng. Tôi rất hoan nghênh tinh thần muốn đổi mới nhạc cụ của quý vị. Nhưng chúng ta cũng phải cẩn thận xem xét đổi mới để làm gì. Các bạn năm này qua tháng kia làm việc đổi mới, còn tôi mới đến đây nghe thì làm sao dám phê bình. Nhưng tôi cũng xin nói ba nguyên tắc của tôi về đổi mới nhạc cụ. Thứ nhứt, hình dáng phải đẹp hơn. Thứ nhì, khả năng biểu diễn phải nhiều hơn. Thứ ba, phải nói được tiếng nói của dân tộc một cách trung thực chứ không phải để nói tiếng nước ngoài trong khi tiếng nước mình còn ngọng nghịu. Tôi thấy nếu ba nguyên tắc đó được áp dụng một cách triệt để thì việc đổi mới sẽ thành công”.
Khán giả vỗ tay rất nhiều, vì nghe được câu chuyện đổi mới nhạc cụ truyền thống của hai nước Ấn Độ và Ả Rập.
Vậy là với khả năng tùy cơ ứng biến, tôi đã nói được những gì đúng với lòng mình nhưng cũng không làm mích lòng người khác và cứu vãn nhiều tình huống khó khăn, tưởng là thất bại lại trở nên thành công mỹ mãn.
Khi đứng trước những khó khăn trong cuộc sống, các bạn trẻ nên bền chí, bình tĩnh vận dụng mọi khả năng để thích nghi với hoàn cảnh như câu nói từ ngàn xưa “tận nhân lực, tri thiên mạng”. Không phải bất cứ lúc nào cuộc sống cũng thuận lợi cho chúng ta. Cũng có lúc mọi việc “xuôi chèo, mát mái” nhưng cũng có lúc xảy ra những bất ngờ không như mong đợi. Biết thích nghi với hoàn cảnh, chúng ta sẽ vượt qua những rào cản và đi đến thành công.

Những câu chuyện từ trái tim (phần 7)

Tôi yêu những cây đờn của tôi như yêu những người bạn không bao giờ phản bội mình. Khi trân trọng những người bạn đồng hành trong việc thực hiện lý tưởng của mình - dẫu đó chỉ là đồ vật - chắc chắn bạn sẽ được đáp lại bằng những tình cảm đặc biệt.  

Chuyện số 7
Yêu đờn như yêu người
Mỗi nghề nghiệp đều có những vật dụng liên quan, thí dụ người thợ mộc có bào, có đục; thợ may có cây kéo… thì người nghệ sĩ đờn có cây đờn.
6 tuổi tôi đã đánh đờn kìm, 8 tuổi tôi đánh đờn cò. Sau này, tôi đờn nhiều nhất là đờn tranh và đờn kìm. Tính đến nay, tôi đã gắn bó với những cây đờn 84 năm. Mỗi cây đờn trong cuộc đời tôi, tôi đều yêu thương như một người bạn đặc biệt, một tri kỷ, tri âm. Cũng vì yêu đờn tha thiết nên không còn gì đau đớn hơn khi không còn đờn được nữa.
Nỗi buồn khi xa tiếng đờn
Năm 2004, khi về Việt Nam, tuổi cao, tôi đờn khó hơn nhiều lắm. Mỗi lần đờn, tôi đều ghi âm, nghe lại mà nước mắt chảy dài. Nhìn hai bàn tay, tôi tự nhủ: “Thôi rồi, mình không còn là mình nữa”.
Bàn tay không nghe theo tôi nữa, muốn tay đi mau cũng không đi mau được, muốn tay nhấn sâu cũng không nhấn sâu được, đưa tay bắt dây đờn cũng bắt trật, kẹt tay trên dây đờn… Tất cả chỉ vì tôi bị thấp khớp.
Tai tôi không còn nghe tốt, phải dùng đến máy trợ thính. Nhiều thanh âm nghe qua máy trợ thính tôi tưởng là đúng nhưng khi nghe lại thì không phải. Không làm chủ được lỗ tai và hai bàn tay, tôi quyết định không đờn nữa. Điều này làm tôi buồn suốt 6 tháng trời. Dứt buồn, tôi quyết định dầu không đờn được nữa thì cứ nghe đờn và tiếp tục dạy học trò.
Tính đến nay, đã 6 năm rồi tôi không đờn. Tất nhiên, tôi vẫn còn đờn được nhưng tôi không thích vì thấy mình kém chính mình trước đây. Thí dụ, trước đây, tôi đờn được 10 thì bây giờ chỉ đờn được 2, 3, tay bị đau và phần sáng tác đờn rao không những không có gì mới hơn, hay hơn mà càng ngày càng thụt lùi. Tôi không muốn để những người đã biết đến tiếng đờn của tôi thấy tôi xuống phong độ.
Một trong những thói quen của tôi là cứ sáng dậy, đờn khoảng 10 - 15 phút, uống trà xong, đờn một chút nữa, khi rảnh rỗi, tôi cũng đờn. Nhưng tôi không ghiền đờn. Bằng chứng là vắng đờn tôi cũng không sao. Có lần, tôi đi dự hội nghị 15 ngày, không mang theo đờn, thấy mọi việc vẫn bình thường. Tất nhiên, với những hội nghị mời tôi với tư cách nhạc sĩ, tôi có thể mang cây đờn đi theo thì tôi sung sướng lắm.
Cũng như nhiều điều trong cuộc đời, khi đã yêu thì tôi yêu hết sức nồng nàn nhưng không để cho say, cho ghiền. Hay như uống rượu, tôi cũng uống thiệt ngon, uống thiệt mạnh, thưởng thức nhiều loại rượu, nhưng tuyệt đối không bao giờ ghiền.
Với tôi, đờn cũng như một người bạn, mà còn là một người bạn đặc biệt hơn cả người tình. Tôi hết mực tôn trọng và không bao giờ có cử chỉ phũ phàng với đờn.
Khi lên dây đờn không ăn, tôi vuốt nhẹ đờn, tâm tình: “Chà, sao bữa nay không ngoan há. Dây như thế này làm sao mà đờn? Ngoan chút đi!”. Khi đã lên dây ăn rồi, tôi lại vuốt ve nhẹ nhàng cây đờn: “Bây giờ ngoan rồi đó!”. Và tôi bắt đầu đờn.
Ở tuổi 90, tôi vẫn nhớ đờn nên tôi vẫn thường ôm đờn, đờn một chút để riêng mình nghe. Chiều 30 tết, tôi thường nhẹ nhàng lau chùi dây đờn, lên dây sẵn và thủ thỉ trò chuyện với đờn. Ngày đầu năm, ai rờ đến cây đờn nào thì đờn lên dây đều đúng hết. Khoảng 8 giờ mùng 1 tết, tôi khai đờn trước khi khai bút. Tôi mang từng cây đờn xuống, đờn đôi câu, vuốt ve tâm tình rồi máng đờn lên.
Cây đờn gia bảo
Có những cây đờn đi theo thăng trầm của cuộc đời tôi. Khi tôi nghèo quá, đờn cùng tôi đi biểu diễn mưu sinh, kiếm tiền học hành. Xin kể các bạn nghe một vài chuyện đáng nhớ của tôi gắn với những cây đờn.
Năm 1949, khi tôi chuẩn bị đi tàu Champollion từ Việt Nam sang Pháp, anh Năm Châu - bạn thân của tôi - đãi tiệc tiễn tôi tại một khách sạn. Chủ khách sạn là bạn của anh Năm Châu, mới hỏi: “Anh Năm đãi anh Khê đi làm gì đó?”. Anh Năm Châu trả lời: “Mai ảnh đi qua bên Tây”. “Đi tàu nào?”. Anh Năm Châu đáp: “Đi tàu Champollion”. Chủ khách sạn nói: “Ấy, chút xíu nữa có ông quan ba tàu Champollion lại đây ăn cơm nè. Hồi trước tôi là lính của ổng, ổng thương tôi ghê lắm. Để tôi gửi gắm anh Khê cho ông quan ba tàu đó”.
Tôi nghe khoái quá. Khi tôi gặp ông quan ba tàu, ổng hỏi: “Anh đi hạng nhứt hay hạng nhì?”. Tôi nói đi hạng tư. Ổng nói: “Đi hạng tư cực lắm. Mà giường nằm thì nhỏ, làm sao mà anh để cây đờn tranh được. Lỡ khi tàu lắc, cây đờn ngã bể thì sao?”.
Tôi càng nghĩ càng lo cho cây đờn tranh mà gia đình để lại. Nói cụ thể, đó là cây đờn có từ thế kỷ 19, là báu vật của gia đình, ông nội tôi để lại cho cô Ba, cô Ba để lại cho tôi.
Ông quan ba nói: “Thôi, để tôi cho anh hai giường kề nhau, trong đó có một giường gần cửa, khi nào nóng thì anh mở cửa cho mát, khi nào lạnh thì đóng cửa lại. Anh ngủ trên một giường, để cây đờn tranh nằm bên cạnh”.
Lúc đó tôi nghèo, không có tiền đóng hộp đờn nên một tay ôm cây đờn tranh, một tay xách cái va li. Vậy là tôi ngủ với cây đờn suốt 27 ngày trên chuyến tàu đó. Tôi rất thương cây đờn nhỏ đó.
Cây đờn đó theo tôi suốt từ năm 1949 đến năm 1973 nơi đất khách quê người. Nhưng càng về sau, cây đờn nhỏ càng không diễn tả hết cái tình ngày càng rộng, càng mạnh, càng sâu trong tôi. Cây đờn đã qua thời “vàng son” và đến lúc tôi cho nó nghỉ ngơi.
Bây giờ, cây đờn nhỏ nhiều kỷ niệm ấy được tôi treo ở một góc trang trọng trong nhà của mình.
Cây đờn tì bà nặng tình bạn học cũ
Một cây đờn khác khắc ghi tình cảm bạn bè dành cho tôi là cây đờn tì bà. Năm 1964, các bạn tôi vốn là cựu học sinh trường Petrus Ký trong một buổi họp mặt đã nhớ lại lời tôi nói hôm nào: “Bên đây có đờn kìm, đờn tranh mà không có đờn tì bà”. Vậy là các bạn góp tiền, mua và gởi một cây đờn tì bà sang Pháp tặng tôi. Hình dáng cây đờn rất đẹp nhưng không kêu to.
Mãi đến năm 1973, anh Vĩnh Bảo sang Pháp và ở nhà tôi, khi xem cây đờn tì bà này, anh nói: “Để tôi “giải phẫu” nó cho nó kêu to”. Tôi đồng ý. Anh Vĩnh Bảo rờ rờ, gõ gõ các nơi và soi một lỗ phía sau lưng đờn thì tiếng đờn thiệt tốt. Tôi ngạc nhiên, sung sướng và ôm lấy anh Vĩnh Bảo để cám ơn. Sau đó, tôi dùng cây đờn tì bà này hòa với tiếng đờn tranh của Vĩnh Bảo và ghi âm làm kỷ niệm.
Cây đờn mang tên Trần Cithare
Năm 1972, tôi còn được anh Vĩnh Bảo tặng cho một cây đờn tranh làm từ cây ngô đồng. Cây đờn này nhẹ, đánh rất vừa tay, tiếng nào cũng êm, và nhứt là rất vừa với giọng ngâm thơ, tiếng ca của tôi. Nhờ đó mà tiếng đờn, tiếng hát của tôi phát triển nhanh chóng.
Năm 1988, khi bay từ Paris qua Honolulu dạy học, tôi đem cây đờn tranh đó theo. Đờn để trong một bao bằng da, nhưng vì kích thước lớn, không có tủ nào để vừa, hãng máy bay không nhận. Để được phép mang cây đờn theo, tôi phải mua thêm một giấy máy bay cho trẻ em. Khi nhân viên sân bay hỏi ghi tên người đi thế nào vào giấy máy bay này, tôi nói hãy ghi tên Trần Cithare (cithare trong tiếng Pháp tức là cây đờn cùng một họ với đờn tranh).
Khi qua cửa xét giấy, nhân viên hỏi em bé đâu, tôi chỉ cây đờn, nhân viên cười. Đến lúc cột dây bảo hiểm, tôi cột dây cho tôi, thì có nhân viên đến cột dây an toàn cho cây đờn. Tới giờ cơm thì cây đờn cũng có phần. Tôi ăn cả phần nó, bận về cũng vậy.
Bên Mỹ, đi máy bay từ tiểu bang này sang tiểu bang kia, nếu hành khách có mua giấy trẻ em cùng đi thì được lên máy bay trước, còn có chiêu đãi viên đến ẵm giùm em bé. Vì vậy, mỗi lần đi chung với cây đờn mang tên Trần Cithare thì tôi được lên máy bay trước, ngồi hàng đầu và có chiêu đãi viên đi theo “ẵm” dùm cây đờn. Nhiều người thắc mắc không biết tôi làm gì mà sang trọng quá, được đi trước, ngồi trước và còn có một chiêu đãi viên đi theo ôm đờn lên tận máy bay. Họ thắc mắc như vậy vì chưa biết những ưu đãi dành cho hành khách có trẻ em đi cùng. Tôi nghĩ, mang theo đờn cũng như mang theo con nhỏ, nhưng nhờ có nó mà tôi được “ăn trên, ngồi trước”.
Cũng chính cây đờn ấy cùng tôi trải qua một tai nạn xe. Vào một buổi tối năm 1992, tại Paris, khi tôi đang lái xe về nhà sau buổi đờn tiễn các bạn Ấn Độ về nước thì xe tôi bị một chiếc xe khác đâm sầm vào. Đầu xe tôi bể nát, tôi kẹt trong xe không ra được. Khi thoát được ra ngoài, tôi thấy mình không bị thương gì. Nhưng cây đờn tranh (vốn là cây đờn do anh Vĩnh Bảo tặng) thì bị sốc và có hai con nhạn đâm thủng mặt đờn. Tôi lo lắm, nếu thay mặt đờn thì phải thay hết, nhưng mặt đờn ấy là do anh Vĩnh Bảo lấy từ mặt một cây đờn cũ làm bằng gỗ ngô đồng của Trung Quốc.
Lúc đó, tôi mới thầm nói: “Tôi thương cây đờn này vì đó là cả một kỷ niệm của bạn tôi”. Sau đó, tôi lấy một miếng giấy có màu giống màu gỗ mặt đờn dán vào chỗ thủng. Vừa dán, tôi vừa thầm thì: “Đờn ơi, đờn bị thương rồi. Nếu mà giải phẫu cắt bỏ hết thì tôi đau lòng lắm. Để tôi băng lại vết thương cho đờn. Nếu thương tôi thì kêu y như xưa nhé!”.
Và tôi để hai con nhạn hơi chệch ra khỏi chỗ thủng. Thật vui khi tiếng đờn vẫn vang như xưa.
Cây đờn tranh từ gỗ ngô đồng Nhựt Bổn
Năm 1976, nhạc sư Vĩnh Bảo còn muốn đóng thêm cho tôi một cây đờn lớn phù hợp với tiếng hát của tôi và cần phải có gỗ ngô đồng để làm mặt đờn. Tôi mới nhờ một người bạn của tôi là giáo sư Tsuge mua dùm gỗ ngô đồng bên Nhựt Bổn và gửi về Việt Nam.
Hành trình của mấy thanh gỗ đó gian lao lắm, qua đến Thái Lan thì kẹt lại hai tháng, sau đó mới đến Việt Nam. Con trai tôi - Trần Quang Minh - xếp hàng đợi cả ngày ở phi trường Tân Sơn Nhứt để nhận hàng. Thời điểm đó, đất nước mới thanh bình, ai đi nhận hàng từ nước ngoài gửi về cũng hớn hở khi nhận được bột ngọt, xà bông, thức ăn… Đến lượt Minh thì nhận được mấy thanh gỗ. Mọi người xung quanh ngạc nhiên lắm. Có người còn đùa: “Bộ ở đây thiếu củi chụm hay sao vậy?”.
Anh Vĩnh Bảo xem qua thanh gỗ rồi cắt làm ba miếng, đóng thành ba cây đờn, một cây cho tôi, một cây cho con gái tôi, một cây cho anh. Ba cây đờn đều có tiếng vang rất hay. Riêng cây đờn của tôi có chữ ký bằng ngà của anh Vĩnh Bảo.
Tôi về nước, nhìn thấy cây đờn là yêu thích ngay. Khi mang cây đờn này sang Pháp biểu diễn, nhiều người ngạc nhiên vì nó lớn hơn những cây đờn tranh khác. Những tiếng trầm vang đúng tiếng trầm, người và đờn hài hòa đồng điệu, ăn ý, nó như bạn tri kỷ tri âm của tôi, diễn tả được những điều tôi muốn thể hiện. Cây đờn đó vô giá vì có tình cảm của giáo sư Tsuge, của anh Vĩnh Bảo trong đó. Đó cũng là cây đờn tôi thích nhứt.
Đời người - đời đờn
Khi tôi nghèo, tha hương, đờn theo tôi lòn lỏi vào hiệu ăn để mưu sinh. Tôi không tránh khỏi lúc tủi thân vì đờn không ai nghe, họ chỉ mải chuyện trò, ăn uống. Khi người ta đến hỏi thăm, cho tiền thưởng thì tôi ngại ngùng không muốn nhận. Chủ hiệu ăn phải để một cái dĩa để họ để tiền vào thưởng nhạc sĩ.
Đờn đồng cam cộng khổ nên tôi yêu thương đờn lắm. Mỗi đêm ngủ với cây đờn, tôi đều cảm thấy thân mật, ấm áp.
Tôi thường nhẹ nhàng vuốt ve đờn, lau chùi dây, để trong hộp đàng hoàng. Trước khi để đờn vào hộp, tôi luôn chùi cây đờn và nói nhỏ: “Thôi nằm yên đó nhé”. Dù đờn là đồ vật nhưng vẫn phải có tình với nó. Tôi không những thương yêu mà còn kính trọng nó. Tôi không bao giờ bước ngang qua đờn, như vậy chẳng khác nào bước ngang đầu một con người, tôi chịu không nổi. Khi đờn xong, tôi luôn xếp đờn trở lại, để phía trước, cúi đầu chào nó một cái, như thể chào một người bạn.
Ngày nay, tôi thấy phần đông nghệ sĩ không thật sự có được thái độ trân trọng cần có với cây đờn, như chống cây đờn để đó rồi bỏ đi, xem nó như món vật để kiếm tiền. Tôi cũng dạy các học trò và các con thái độ trân trọng với đờn. Tôi ý thức việc này, biết nâng niu những cây đờn từ nhỏ.
Nhiều khi, tôi giải tỏa những tình cảm bằng tiếng đờn tranh. Mỗi lần buồn nhớ điều gì, tôi lấy đờn tranh ra, pha một bình trà, vặn dây đờn lên là thấy người nhẹ nhàng, lên dây mà ăn thì thấy người khoan khoái.
Nhiều khi tôi buồn quá, tôi lên dây không ăn, tôi nghĩ chắc đờn cũng đang chia sẻ với cái bối rối của mình. Khi đờn, tôi luôn chú ý để tay sạch, quần áo sạch sẽ, tâm tĩnh lặng.
Tôi chỉ có khoảng chục cây đờn, tôi chọn cây đờn tranh để đờn nhiều nhứt vì nó diễn tả hết tất cả những gì uyển chuyển trong tâm hồn tôi. Và mỗi lần đờn, nhất là đờn bản Nam xuân nhịp tư trên đờn tranh, tôi lại nhớ cô Ba da diết.
Tôi yêu những cây đờn của tôi như yêu những người bạn không bao giờ phản bội mình. Khi trân trọng những người bạn đồng hành trong việc thực hiện lý tưởng của mình - dẫu đó chỉ là đồ vật - chắc chắn bạn sẽ được đáp lại bằng những tình cảm đặc biệt.

Những câu chuyện từ trái tim (phần 8)

Trần Văn Khê

Tôi từng suy nghĩ rằng tuổi cao là lúc mình được nghỉ ngơi. Nhưng trong khi vui chơi, tôi lại nghĩ: 'Quỹ thời gian còn lại trên đời không được bao nhiêu, vậy mà dùng để vui chơi vậy thì đã bỏ bao nhiêu cơ hội đem hiểu biết của mình giúp ích cho đời...'.

Chuyện số 8
Việt Nam luôn trong tim
Tôi được sanh ra trên đất nước Việt Nam, vì hoàn cảnh, tôi phải xa đất nước một thời gian dài, nhưng hình ảnh đất nước luôn trong trái tim tôi, không ngừng thôi thúc tôi nghiên cứu, giới thiệu âm nhạc Việt Nam đến các nước.
Khi đi nhiều nơi, tiếp xúc với không biết bao nhiêu nền văn hóa khác nhau, nhìn thấy cái đẹp của nhiều nước, tôi cũng không quên rằng Việt Nam của tôi cũng có rất nhiều cái đẹp. Nhiều điều trong văn hóa của các nước làm tôi thích lắm, nhưng tôi luôn nhớ rằng đó là văn hóa của người, là điều mình có thể thưởng thức chớ không bao giờ có thể lấy đó thay thế văn hóa của mình.
Hình ảnh Việt Nam trong trái tim tôi đó chính là ngôn ngữ, âm nhạc, con người, phong cảnh, văn hóa… Việt Nam.
Nâng niu tiếng nước mình
Một trong những niềm tự hào của mỗi con người chính là tiếng cha sanh mẹ đẻ. Tiếng nói Việt Nam rất thú vị và vô cùng quan trọng đối với tôi. Vì vậy mà ở nơi đất khách quê người, tôi vẫn luôn tìm đọc sách Việt Nam, nói bằng tiếng Việt Nam, viết báo bằng tiếng Việt Nam, viết thư cho bạn bè cũng bằng tiếng Việt Nam. Nhờ vậy mà dầu ở nước ngoài 55 năm, tôi vẫn không bao giờ quên tiếng Việt Nam.
Tôi nói rất thông thạo tiếng Anh, tiếng Pháp, tôi không hãnh diện về việc đó mà chỉ xem đó là phương tiện để tôi có thể dạy âm nhạc Việt Nam ở các nước, để giới thiệu văn hóa Việt Nam đến quốc tế. Mỗi khi đứng dạy âm nhạc, văn hóa Việt Nam bằng những ngôn ngữ khác tiếng Việt, tôi luôn mơ ước có một ngày, tôi có cơ hội dạy những điều này trên đất nước Việt Nam, dạy bằng tiếng Việt Nam, cho sinh viên Việt Nam.
Và khi tôi về nước, điều mơ ước ấy đã thành hiện thực, tôi rất hạnh phúc. Trong 5 năm giảng dạy tại Việt Nam, tôi giảng y như người Việt Nam, không xen tiếng nước ngoài, không ấp úng, lúng túng khi sử dụng tiếng Việt.
Tôi đã đọc thi ca của Ba Tư, Pháp, Anh… và cảm nhận được rất nhiều điều hay, thú vị, nhưng tôi vẫn thấy xúc động hơn khi đọc một câu Kiều, một bài thơ của Bà Huyện Thanh Quan… Bởi thơ ca được diễn đạt bằng tiếng nước mình, mình sẽ dễ cảm nhận được sự sâu sắc, thâm thúy của từng chữ.
Hiện nay, tôi thấy một số bạn trẻ Việt Nam khi nói chuyện thường xen tiếng nước ngoài vào. Thật ra, thời của tôi, mọi người khi nói cũng chen tiếng Tây. Thí dụ như: “Tôi sắp đi France” chứ không nói “Tôi sắp đi Pháp”. Hay có học trò của tôi đi sang Anh mới hai năm mà nói với tôi lẫn lộn Anh - Việt thế này: “Thưa thầy, gặp thầy em mừng quá. Chiều nay, thầy cho phép record khi thầy đờn và nói chuyện. Nhưng bây giờ, em không có cái tape nào sạch. Thầy đợi em wipe cái tape rồi em record thầy nói chuyện”.
Lúc đó tôi nhắc: “Tại em nói tiếng Anh tiếng Việt lẫn lộn riết nên nó thành thói quen của em. Em chỉ cần nói rằng, bây giờ em không có cuốn băng nào sạch, để em xóa băng cũ rồi xin phép thầy cho em thu âm thầy đờn và nói chuyện”.
Hay có học trò nhắn tin vào điện thoại của tôi, tin nhắn có phần viết thế này: “em and thầy”. Tôi chỉnh ngay: “Viết em và thầy dễ hơn, sao em lại phải viết em and thầy?”.
Tôi thường nhắc nhở các học trò nói năng cho thuần Việt mỗi khi các em có cách nói như thế.
Hay một hiện tượng khác là một số người Việt Nam chọn cho mình một cái tên nước ngoài với lý do là để làm việc với người nước ngoài thuận tiện hơn. Tôi thấy nếu vì lý do này thì thật không cần thiết phải làm vậy. Bôn ba bốn biển năm châu, tôi đều dùng tên Trần Văn Khê do cha mẹ đặt cho và ai cũng hoan nghênh và ai cũng biết tôi là Trần Văn Khê. Thế giới chấp nhận tên tôi, mọi người xem tôi như một đại diện trung thực, chính xác của Việt Nam, không bị ngoại lai từ âm nhạc cho đến ngôn ngữ. Nếu tôi tự đặt cho mình một tên tây, có thể một số nước sẽ cho tôi vọng ngoại.
Nhiều người nước ngoài không biết tiếng Việt, gọi tên tôi không đúng nhưng tôi cũng không thấy phiền, vì chính chúng ta cũng thường phát âm không chính xác hoàn toàn tên của người nước khác.
"Đờn reo đất nước thấy thêm gần"
Ai xa đất nước cũng nhớ về đất nước. Để vơi nỗi nhớ, có người về thăm đất nước, có người tìm mua những món ăn truyền thống của dân tộc, còn với tôi thì tôi khảy mấy cung đờn. Khi nghe tiếng đờn, tôi thấy lòng bình yên, thấy mình thêm gần đất nước hơn. Vậy nên tôi mới viết:"Đờn reo đất nước thấy thêm gần."
Càng xa đất nước, hình ảnh đất nước càng đậm sâu trong trái tim tôi, nỗi nhớ thương đất nước cũng thêm nhiều. Một trong những nỗi nhớ ấy là về cái tết cổ truyền của dân tộc.
Nơi xứ người, những dịp như năm mới, Noel, nhìn mọi người vui chơi, tôi cũng vui nhưng trong lòng không thể nào vui bằng cái tết của mình, cái tết Việt Nam với tôi là hơn hết. Tôi cũng tự nhủ, không phải vui với cái tết người ta mà quên tết mình.
Trong những cái tết xa quê hương, tôi nhớ da diết cái tết nơi quê nhà, nhớ nhiều nhứt là mùng 2 tết, cả nhà quây quần ở nhà người cậu thứ tư, cùng hòa đờn. Tôi nhớ cả tiếng pháo giao thừa, nhớ buổi sáng đầu năm thức dậy hoa lá khoe sắc. Trong khi đó, những cái tết xa quê hương chỉ có giá tuyết lạnh.
Về sau, cái tết nơi xứ người có thêm cành đào từ quê nhà gửi sang. Hoa đến tay người thì hoa cũng không còn tươi thắm là bao. Hay khi không có hoa thiệt thì tôi vui tết bằng hoa giả. Mà hoa giả làm sao làm lòng mình xúc động bằng ngắm hoa thiệt? Những nỗi nhớ tiềm tàng trong tâm hồn về một ngọn gió xuân quê hương, một khung cảnh thân thương… đành gởi gắm vào cung đờn.
Sống xa đất nước lâu nên lúc nào tôi cũng thèm về Việt Nam. Tôi nghĩ về Việt Nam như là lý tưởng sống của tôi trong hoàng hôn của cuộc đời. Năm 2004, khi ngày hồi hương gần kề, tôi thấy nôn nao trong người và gởi nỗi lòng ấy vào thơ:
"Quê nhà về ở không do dự
Đất khách rứt đi hết buộc ràng
Sự nghiệp tinh thần trao đất nước
Nâng đàn vui khảy tính tình tang."

Giới thiệu hình ảnh Việt Nam qua cung đờn
Tôi thương nước Việt Nam nên đã chọn con đường nghiên cứu, giảng dạy, thuyết giảng về âm nhạc để giúp bạn bè quốc tế hiểu hơn về Việt Nam. Tôi nghĩ đó là một phận sự.
Từ lúc bắt đầu đi nói chuyện về âm nhạc truyền thống Việt Nam ở nhiều nơi đến giờ, tôi chưa từng nghe ai chê âm nhạc truyền thống Việt Nam là dở. Nhiều người đến hỏi tôi về âm nhạc truyền thống Việt Nam, khi nghe tôi giải thích thì nhiều người giựt mình. Sự phong phú, giàu có, độc đáo của âm nhạc Việt Nam là niềm hạnh phúc, niềm tự hào lớn của mỗi con người Việt Nam.
Vừa giới thiệu về âm nhạc truyền thống Việt Nam, tôi vừa rút kinh nghiệm để lần sau làm tốt hơn. Có một số trường hợp, tôi thấy người giới thiệu đờn chỉ thuần đờn cho mọi người nghe chớ không giảng giải, người nghe chỉ nghe thôi chứ không hiểu gì về cây đờn đó. Hay người giới thiệu nói quá nhiều thì người nghe cũng mệt. Vậy là không nói thì thiếu, nói nhiều quá thì không hay.
Có người gọi công việc tôi đã và đang làm có tánh cách tiếp thị âm nhạc Việt Nam đến bạn bè thế giới. Thật ra, thời điểm tôi bắt đầu công việc giới thiệu văn hóa, âm nhạc truyền thống Việt Nam, tôi không nghĩ đến hai chữ “tiếp thị” mà chỉ đơn giản muốn mọi người biết về những nét đẹp đó của đất nước mình. Và đó là một niềm hạnh phúc lớn lao.
Khi giới thiệu âm nhạc dân tộc Việt Nam, mục đích của tôi là giúp mọi người hiểu âm nhạc, nhưng nhiều khi cũng có ảnh hưởng tốt về mặt chính trị mà tôi không ngờ.
Trong một chương trình truyền hình ở Honolulu (Mỹ) mà tôi từng tham gia, vào thời điểm ấy, rất nhiều người nghe đến Việt Nam là nghĩ về chiến tranh. Người dẫn chương trình đã giới thiệu: “Thưa quý vị khán giả, nói đến Việt Nam là chúng ta nghĩ đến chiến tranh. Thế nhưng hôm nay, chúng tôi may mắn gặp được một người Việt Nam mang theo một thông điệp văn hóa, thi ca, âm nhạc của đất nước này. Xin quý vị đừng bỏ lỡ chương trình”. Và sau đó là hình ảnh cánh đồng lúa vàng, một con cò trắng bay và tiếng tôi ngâm sa mạc.
Chương trình đó có rất nhiều người đón xem. Tôi nói rằng: “Dân tộc Việt Nam của tôi là dân tộc có tiếng hát đi theo mọi động tác sinh hoạt trong cuộc sống. Từ lúc mới sinh ra, lúc làm việc ngoài đồng, lúc gặp gỡ lứa đôi, lúc trở về cát bụi”.
Rồi tôi dẫn chứng: “Đứa bé mới sinh ra thì được nghe tiếng hát ru của mẹ, mỗi lời ru ấy dạy ta biết bao điều. Thí dụ như Con mèo, con chuột có lông, ống tre có mắt nồi đồng có gai. Tiếng hát ru chính là bài học âm nhạc đầu tiên mẹ dạy cho con. Những điều tưởng giản dị ấy đã giúp đứa bé có những cảm nhận đầu tiên về cuộc sống xung quanh. Khi đứa bé vui chơi thì có đồng dao. Người lớn khi lao động thì có câu hò, khi uống trà nghỉ ngơi thì có điệu lý. Những đêm trăng gái trai gặp gỡ, trao đá đổi vàng thì có đối ca. Khi đau ốm thì cũng có một loại nhạc giúp tâm hồn yên tĩnh lại. Khi đi về nơi vĩnh cữu thì cũng có tiếng “hò đưa linh”. Người Việt Nam không chỉ thích hát mà còn thích nghe người khác hát, không chỉ thích nghe hát mà còn thích xem biểu diễn kịch nghệ. Chúng ta có hát chèo ở miền Bắc, hát bội miền Trung, hát cải lương miền Nam”.
Sau khi chương trình chấm dứt, nhiều thính giả gọi điện cảm ơn đài truyền hình đã xóa tan hình ảnh chiến tranh trong tâm hồn họ khi nghe nói đến Việt Nam.
Nếu người nào đó nói với bạn rằng họ chưa biết nhiều về Việt Nam thì đừng ngần ngại giúp họ hiểu hơn về đất nước mình.
Bênh vực những giá trị đẹp đẽ của đất nước
Vì Việt Nam luôn trong trái tim tôi nên khi ai khen Việt Nam thì tôi thích, vui mừng, tự hào, ai chê Việt Nam mà đúng thì tôi lắng nghe đặng tìm cách trau dồi bản thân, nhắn nhủ đến mọi người.
Nhưng khi có ai chê Việt Nam không đúng cách, làm tổn thương cái đẹp của Việt Nam thì tôi không thể chịu được, không thể bỏ qua được. Xin kể các bạn nghe một câu chuyện thí dụ.
Năm 1964, tôi được mời tham dự buổi sinh hoạt thường lệ của Hội Truyền bá tanka Nhựt Bổn tổ chức tại Palais d'Orsay ở Paris. Hầu hết những người tham dự là người Nhựt Bổn và người Pháp, tôi là người Việt Nam duy nhứt tham dự buổi hôm đó nhưng không ai biết vì mọi người tưởng tôi là người Nhựt Bổn.
Tanka, viết theo Hán tự là “đoản ca”, một thể thơ rất độc đáo của thi ca Nhựt Bổn. Nội dung diễn tả những cảm xúc vui - buồn - thương - giận của đời thường, lấy mọi chủ đề trong cuộc sống từ cảnh đẹp thiên nhiên đến muôn mặt tình cảm con người. Về hình thức, một bài thơ tanka chỉ có 31 âm với cấu trúc 5-7-5-7-7, nhịp điệu phù hợp với đặc thù của tiếng Nhựt.
Diễn giả đăng đàn hôm đó là một cựu đề đốc thủy sư người Pháp, thuyết trình về những nét đặc thù của thi ca Nhựt Bổn nói chung và tanka nói riêng. Ông mở đầu bài diễn thuyết bằng so sánh: “Thưa quý vị, tôi là thủy sư đề đốc, đã sống ở Việt Nam hai chục năm mà không thấy một áng văn nào đáng kể. Nhưng khi sang nước Nhựt Bổn chỉ trong vòng một, hai năm, tôi đã thấy cả một rừng văn học, và trong rừng văn học đó, tanka là một đóa hoa tuyệt đẹp”.
Sau đó, ông tiếp tục có nhiều lời khen ngợi thơ tanka. Ông nhấn mạnh: “Trong thơ tanka, chỉ cần nói một ngọn núi, một con sông mà tả được bao nhiêu tình cảm. Chỉ cần 31 âm mà nói bao nhiều chuyện sâu sắc, đậm đà. Nội hai điều đó mà tôi thấy không dễ gì nước khác có được”.
Phát biểu đó làm tôi bức xúc nhiều. Sau phần giao lưu, hỏi đáp giữa diễn giả và thính giả, trước khi bế mạc, ban chủ tọa hỏi trong số khán thính giả còn câu hỏi hay thắc mắc nào khác cần bày tỏ hay không. Tôi đứng dậy, xin phép được nói lên một số suy nghĩ.
Tôi rào trước đón sau để không bị ai bắt bẻ, nói bằng một thái độ lễ phép nhứt: “Bây giờ tôi xin phép không đặt câu hỏi liên quan đến đề tài chánh mà tôi đi lạc đề một chút. Tôi không phải là người chuyên môn văn học. Tôi là giáo sư nghiên cứu âm nhạc và thành viên của Hội đồng Quốc tế âm nhạc của UNESCO”.
Nhờ những uy tín đó và khả năng nói tiếng Pháp rất tốt, phong cách nói nhẹ nhàng, nên tôi được nhiều người lắng nghe. Tôi nói tiếp:
“Trong lời mở đầu phần nói chuyện, ông thủy sư đề đốc có nói rằng ông đã sống ở nước Việt hai chục năm mà không thấy một áng văn nào đáng kể. Tôi là người Việt, khi nghe câu đó tôi rất ngạc nhiên. Thưa ngài, chẳng biết khi ngài qua nước Việt, ngài chơi với ai mà ngài không biết một áng văn nào của Việt Nam? Tôi biết người Pháp có câu, những người có sở thích giống nhau thường chơi với nhau. Có lẽ ngài chỉ đi chơi với những người chỉ quan tâm chuyện ăn uống, chơi bời, hút xách thì làm sao biết đến văn chương. Phải chi ngài chơi với ông giáo sư Emile Gaspardone, thì ngài sẽ được biết đến một thư mục mà giáo sư đã ghi lại gồm trên 1.500 sách báo về văn chương Việt Nam, in trên tạp chí Trường Viễn Đông Bác Cổ của Pháp, số 1 năm 1934. Hay nếu ngài gặp ông Maurice Durand, thì hẳn ngài sẽ có dịp đọc qua hàng ngàn câu ca dao Việt Nam ông Durand đã cất công sưu tập.
Ông Durand cũng hiểu biết về nghệ thuật chầu văn và đã cho xuất bản một cuốn sách ghi lại những hiểu biết của ông về sinh hoạt mọi mặt của người Việt Nam. Ông Maurice Durand cũng đã cộng tác với giáo sư bác sĩ Pierre Huard người Pháp, viết một thiên nghiên cứu về Việt Nam trong lĩnh vực dân tộc học, văn học và âm nhạc học, có tựa đề là Connaissances du Vietnam (Tìm hiểu nước Việt Nam). Nếu ngài làm bạn với những người như vậy ngài sẽ biết rằng nước tôi không chỉ có một mà có hàng ngàn áng văn kiệt tác. Tôi không biết ngài đối với người Việt Nam thế nào nhưng người Việt Nam thường rất hiếu khách, sẵn sàng nói cái hay trong văn hóa của mình cho người nước khác nghe, nhưng mà người Việt Nam chúng tôi cũng chọn mặt gửi vàng, đối với những người nào muốn tìm hiểu thật sự về Việt Nam thì chúng tôi sẽ cho biết, còn đối với những người nào phách lối thì có khi chúng tôi không nói chuyện. Việc ông không thấy bất cứ áng văn nào của Việt Nam cho thấy ông đang giao thiệp với những người Pháp như thế nào, ông đối xử với người Việt Nam ra sao. Tôi rất tiếc vì điều đó. Vậy mà ông còn dùng đại ngôn trong lời mở đầu”.
Tôi nói tiếp: “Ông nói rằng trong thơ tanka chỉ cần nói một ngọn núi, một con sông mà tả được bao nhiêu tình cảm. Tôi là một người nghiên cứu về âm nhạc nên tôi chỉ biết sâu về âm nhạc, nhưng với những kiến thức văn chương tôi học được ở trung học cũng đủ để trả lời ông. Việt Nam có câu: “Núi cao chi lắm núi ơi/ Núi che mặt trời không thấy người yêu”. Tức là cũng dùng ngọn núi để diễn tả nỗi nhớ thương. Hay như khi trai gái thương yêu nhau thì mượn hoa lá để bày tỏ tình cảm: “Đêm qua mận mới hỏi đào/Vườn hồng đã có ai vào hay chưa”. Còn về số âm tiết, tôi nhớ rằng đại sứ Việt Nam là Mạc Đĩnh Chi dưới thời nhà Trần đi sứ sang nhà Nguyên, thì bà hậu phi của nhà Nguyên vừa từ trần. Triều đình nhà Nguyên muốn thử tài đại sứ nên mời đại sứ đọc bài điếu văn. Khi đưa bài điếu văn ra chỉ có 4 chữ nhứt. Đại sứ Mạc Đĩnh Chi không hốt hoảng mà ứng tác liền:
"Thanh thiên nhứt đóa vân
Hồng lô nhứt điểm tuyết
Thượng uyển nhứt chi hoa
Dao trì nhất phiến nguyệt
Y! Vân tán, tuyết tiêu, hoa tàn, nguyệt khuyết!"

Tạm dịch:
"Một đám mây giữa trời xanh
Một bông tuyết trong lò lửa
Một bông hoa giữa vườn thượng uyển
Một vầng trăng trên mặt nước aoThan ôi! Mây tản, tuyết tan, hoa tàn, trăng khuyết!"
Tất cả là 29 âm chứ không phải 31 âm, đủ để nói người quá vãng đẹp và quý như trên trời xanh có một đám mây, lò hồng có một nụ tuyết, vườn thượng uyển có một bông hoa, dưới ao có một bóng trăng. Người đó không còn trên đời được thể hiện bằng hình ảnh mây tản, tuyết tan, hoa tàn, trăng lặn”.
Khi tôi dịch những câu thơ Việt Nam và giải nghĩa thì khán giả vỗ tay nhiệt liệt.
Tôi kết thúc lời phát biểu của mình: “Đó chỉ là những hiểu biết của tôi khi tôi học ở trường trung học tại Việt Nam để nói rõ với ông thủy sư đề đốc về văn chương phong phú của đất nước tôi. Cũng xin nhắc với đề đốc khi nào ông muốn nói về văn chương thi ca, ông đừng dùng sự tương phản để câu mở đầu của ông hay hơn mà lại hạ thấp giá trị tinh thần của một dân tộc khác, như vậy là ông làm tổn thương dân tộc đó”.
Ông đề đốc thủy sư đỏ mặt, đứng dậy và nói: “Thực ra tôi chưa biết về người đang đối thoại với tôi, chỉ biết ông là một giáo sư. Khi ông nói và đưa thí dụ, tôi thấy rằng tôi đã quá sai. Trong lúc mở đầu câu chuyện, tôi đã vô tình làm tổn thương giá trị văn chương của một dân tộc khác, tôi xin lỗi cả dân tộc Việt Nam. Và tôi xin hứa là không để chuyện này lặp lại”.
Tôi trả lời: “Dân tộc Việt Nam chúng tôi rất khoan hồng và tôi tin chắc rằng dân tộc Việt Nam sẽ tha lỗi cho ông. Người Pháp có câu: những lỗi được người làm lỗi nhìn nhận và xin lỗi tức là đã được tha thứ một phân nửa. Sau khi ông xin lỗi chánh thức trước mặt mọi người, tôi cũng tha lỗi cho ông”.
Trong giờ giải lao, ông thủy sư đề đốc đến nói với tôi: “Khi nghe ông đưa các thí dụ, tôi thấy xấu hổ lắm và tôi mong vợ chồng tôi có thể mời ông đến dùng cơm với chúng tôi để chúng tôi có dịp nghe ông nói chuyện và hiểu thêm về Việt Nam”.
Tôi đáp: “Cảm ơn ông nhưng người Việt Nam chúng tôi không phải ai mời ăn cơm cũng ăn, bởi chúng tôi chỉ ăn với những người mình thương yêu, tâm đầu ý hiệp. Tôi và ông mới gặp nhau lần đầu và cũng không gặp nhau trong hòa khí, thì xin ông cho một thời gian sau, khi có dịp hiểu biết nhau hơn thì có thể dùng cơm với nhau”.
Ông lại nói: “Như vậy là giáo sư chưa tha lỗi cho tôi”. Tôi đáp: “Có một câu ví von mà tôi không thể nói bằng tiếng Việt hay bằng tiếng Pháp mà phải nói bằng tiếng Anh, đó là I forgive but I can’t yet forget” (tạm dịch: Tôi tha thứ nhưng tôi chưa thể quên). Từ đó về sau tôi và ông thủy sư đề đốc không bao giờ gặp nhau nữa.
Có ích cho đất nước trong mỗi phút giây
Tôi luôn mong cống hiến trọn đời cho đất nước, bằng cách làm sao cho nhiều người Việt Nam, đặc biệt là giới trẻ hiểu thêm và quay trở về với âm nhạc truyền thống Việt Nam.
Tôi là người của công việc và luôn mong mỗi một giây phút sống của mình phải có ích cho đất nước. Nếu chỉ sống mà chỉ để ăn, uống, tồn tại như cây cỏ - thì chắc tôi không sống nổi. Bao giờ mà tôi thấy mình không có ích cho ai nữa thì chắc không cần đợi có bịnh, tôi cũng sợ e không còn sức sống nữa.
Ở tuổi 90, tôi vẫn tiếp tục những công việc phù hợp với sức khỏe của mình: nói chuyện trên truyền hình, nói chuyện ở các trường, viết bài tham luận, dạy học trò, giúp học trò làm luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ, tổ chức các buổi nói chuyện âm nhạc chuyên đề định kỳ tại nhà… Tôi luôn tâm niệm, sống là cống hiến và không bao giờ tự nghĩ rằng cống hiến thế là đủ.
Trong mỗi buổi nói chuyện định kỳ về âm nhạc, ngoài việc mời những người trong lãnh vực nghệ thuật, các doanh nhân, tôi luôn để 50 chỗ cho thanh niên. Căn phòng họp trong nhà tôi chỉ chứa được 100 người, như vậy cũng đủ để buổi nói chuyện không bị loãng, hạn chế những người đến xem chỉ vì hiếu kỳ, hay đi ra đi vào làm ảnh hưởng đến người khác. Tôi xem đó là một “thánh đường” của văn hóa, âm nhạc của riêng tôi. Các cơ quan truyền thông cũng hỗ trợ tôi rất nhiều để chia sẻ thông tin, mở rộng tác dụng của chương trình này. Con trai của tôi ở nước ngoài cũng đưa thông tin về chương trình này lên mạng bằng tiếng Anh, tiếng Pháp để thêm nhiều người biết đến những điều tôi nói về âm nhạc, văn hóa Việt Nam.
Mong muốn của tôi khi tổ chức chương trình này là tạo cơ hội cho những người muốn tìm hiểu âm nhạc dân tộc Việt Nam có dịp tiếp cận với nó. Quan trọng nhứt là thanh niên, tôi muốn thanh niên hiểu về những giá trị quý báu ấy của dân tộc. Và để hấp dẫn người tham dự, tôi không chỉ cắt nghĩa, giải thích mà còn mời người biểu diễn để minh họa. Tôi tin rằng bạn trẻ Việt Nam cũng yêu thích âm nhạc dân tộc, vấn đề là cần có người giảng giải cho các bạn một cách sinh động, hấp dẫn. Tôi rất mong muốn có những người như vậy tiếp tục thực hiện ước vọng này của tôi.
Có những bạn trẻ khi tham gia chương trình đã xúc động đến rơi nước mắt khi hiểu về cái hay, cái đẹp của âm nhạc dân tộc, dẫu trước đó, bạn không ưa âm nhạc dân tộc.
Trong khi tôi làm ra tiền, tôi giúp cho con, cháu học trò nghèo, tiền tôi không để xài cho riêng tôi, tôi ăn mặc rất đơn giản. Thậm chí, khi tôi không có đủ tiền cho học trò thì tôi đi xin các mạnh thường quân trong và ngoài nước. Có một em học sinh làm tôi hết sức cảm động khi nói: “Thầy ơi, con thương thầy quá! Thầy tuổi già rồi mà thầy phải đi ăn xin để nuôi tụi con, tụi con không bao giờ dám quên. Phải cố gắng học để không phụ lòng thầy thương mấy con”.
Tôi từng suy nghĩ rằng tuổi cao là lúc mình được nghỉ ngơi. Nhưng trong khi vui chơi, tôi lại nghĩ: “Quỹ thời gian còn lại trên đời không được bao nhiêu, vậy mà dùng để vui chơi vậy thì đã bỏ bao nhiêu cơ hội đem hiểu biết của mình giúp ích cho đời. Mình vui chơi tức là cho rằng công chuyện mình làm đã đầy đủ nhưng thật ra công chuyện mình làm thì biết lúc nào là đầy đủ”.
Đời người vốn ngắn ngủi nhưng cứ "tận nhân lực, tri thiên mạng", mặc dầu tuổi lớn, khi còn làm được thì tôi vẫn làm, vẫn còn dành trọn tâm huyết cho một chữ tình với âm nhạc, với người, với cuộc đời. Tất cả cũng vì hình ảnh Việt Nam luôn trong trái tim tôi. Tôi có gởi gắm điều này trong mấy câu thơ:
"Cả một đời xây một chữ tình
Chẳng vì duyên lợi chẳng vì danh
Tình quê, tình nước, tình nhân loại
Tình nhạc, tình thơ, tình với tình
Thiên phú trời cho đâu đã chắc
Trau dồi luyện tập mới nên tinh
80 ngoài tuổi ngồi ghi lại
Chút lửa tình trao kẻ hậu sinh."
     

Những câu chuyện từ trái tim (phần 9)

Trần Văn Khê

Vì hoàn cảnh, tôi phải xa các con khi các con còn bé, nhưng trong khả năng của mình, tôi cố gắng thực hiện bổn phận dạy dỗ con cái.
Đọc lại các phần trước

Chuyện số 9
Dạy con bằng trái tim tỉnh táo
Quan niệm của tôi trong việc dạy con là chỉ đưa ra những nguyên tắc và con dựa trên những nguyên tắc đó để làm khác tôi, sáng tạo hơn. Điều này áp dụng từ việc tôi dạy con nấu ăn, làm thơ đến đờn. Và điều quan trọng nhứt tôi mong là con luôn yêu thích những công việc con đã chọn làm.
Tiếc vì không thể thai giáo cho con
Tôi nghĩ rằng thai giáo có ý nghĩa rất quan trọng đến sự phát triển của đứa trẻ sau này. Tôi may mắn được thai giáo rất chu đáo và rất tiếc khi không có điều kiện thai giáo cho các con của tôi vì tôi phải xa Việt Nam quá lâu.
Má tôi vốn có tư tưởng độc lập, là con của điền chủ nhưng tham gia cách mạng rất nhiệt tình. Má không biết gì về thai giáo nhưng cậu Năm của tôi bảo làm gì để thai giáo má cũng làm theo.
Từ tháng thứ hai mang thai tôi, để má tôi không có những cảm xúc không tốt như sợ, giận, buồn, lo, cậu Năm cất cho má tôi một cái chái ngay cạnh nhà cậu. Cái chái ấy rất yên tĩnh, thức ăn uống đầy đủ, không bị nực, không bị lạnh. Mỗi buổi chiều, cậu Năm lấy ống sáo, thổi cho bào thai nghe những bài êm ái, dịu dàng.
Cậu Năm ưa đá gà, chuồng gà để khắp nơi, nhưng vì không muốn để má tôi thấy cựa gà, cảnh đá gà sát phạt, nên cậu dẹp hết chuồng gà và không cho đá gà trong sân nhà nữa. Cậu cũng không cho má tôi đi coi hát bội vì sợ má thấy diễn viên mặt mày vằn vện. Cậu chỉ cho má coi những sách vở có những hình ảnh đẹp đẽ, lời hay ý đẹp như sách Nhị thập tứ hiếu, Luận ngữ, Cổ học tinh hoa…
Xung quanh chái, cậu trồng rất nhiều bông. Khi má tôi đi chơi ngoài vườn thì gặp bông vạn thọ, bông móng tay. Những loại bông ấy được trồng với ý chúc tôi sống lâu, ngón tay đẹp như bông móng tay để đờn được. Về chuyện ăn uống, má chỉ ăn những món quen thuộc do nhà nấu, không ăn những món mà có thể nhìn thấy máu me. Chuyện gì buồn trong nhà cậu cũng không cho má biết. Mợ Năm của tôi làm hộ sanh nên nếu má tôi chuyển bụng, sẽ có người lo ngay, không cần phải chuyển má đi đâu.
Tất cả những điều đó để tạo cho má tôi tâm trạng thoải mái, nhẹ nhàng, luôn mộng rằng con mình sau này sẽ làm âm nhạc và giúp ích cho âm nhạc nước nhà. Đó cũng là ước nguyện của ông nội và cậu tôi.
Khi tôi mới lọt lòng, cậu Năm tôi thổi sáo mừng tôi. Sau khi sanh, hai má con vẫn ở trong chái đó, giường má đặt cạnh giường con. Tôi giáp 1 tuổi thì ông nội đến xin đem tôi về nhà. Ông nói với cậu Năm: “Năm à, tụi con còn nhỏ, còn hưởng nó nhiều lắm. Còn bác già rồi, không còn sống bao nhiêu năm nữa, con cho bác hưởng nó một ít”. Cậu Năm đồng ý và chở má con tôi về nhà ông nội. 5 năm sau, ông nội tôi mất.
Tôi được 3 tuổi thì má có thai em Trạch, cậu Năm lại thai giáo cho em Trạch y như đã làm cho tôi. Tôi nghĩ rằng cũng vì vậy mà sau này Trạch cũng như tôi, rất mê, rất thương âm nhạc Việt Nam. Khi tôi lớn, nghe cậu Năm kể lại chuyện thai giáo, tôi rất ngạc nhiên và biết ơn sự chu đáo hết lòng của cậu. Tôi chỉ tiếc vì hoàn cảnh không thể thai giáo cho các con của tôi như tôi muốn.
Tôi chỉ có thể thai giáo với con trai đầu lòng Trần Quang Hải. Lúc đó, tôi thích nhạc Lưu Hữu Phước nên tôi và mẹ cháu chỉ hát những bài ca trong vở kịch Tục lụy nên lớn lên, lúc đầu, Hải thích nhạc mới hơn là nhạc cổ.
Cách ông nội dạy tôi cũng góp phần sớm nuôi dưỡng tình yêu âm nhạc dân tộc trong tôi. Khi tôi hơn 2 tuổi, hễ nghe tiếng đờn tì bà của ông nội là tôi đạp chân phóng lên. Có người không tin thằng bé hơn 2 tuổi mà biết nhảy theo đờn, nói với ông nội rằng tại người ẵm đã giở tôi lên. Ông nội bảo cứ ẵm tôi thử, rồi ông nội đờn khi nhanh, khi chậm, tôi cứ theo đó mà nhảy theo nhịp đờn.
Ông nội hễ thấy đứa nhỏ có khiếu gì thì muốn nó phát triển cái khiếu đó hơn thường. Vì vậy, ông nội đờn cho tôi nhảy hoài, đờn khi chậm khi mau.
Những món đồ chơi ngày nhỏ của tôi cũng gắn với âm nhạc. Khi tôi lên 4 tuổi, ông nội làm đồ chơi cho tôi có hình dáng y như cái máy hát dĩa quay. Ông nội kiếm một cái bánh xe, cắt giấy bồi thành hình tròn để làm dĩa hát, ở giữa đục cái lỗ, lấy dây kẽm làm cây kim, để lên mặt dĩa. Tôi lấy tay quay dĩa cho kim nhảy và tôi nhái theo đoạn đầu của dĩa hát thời ấy: “Gánh hát cải lương của thầy Năm Tú ở tại Mỹ Tho hát cho hãng Pathé Phono nghe chơi, tuồng Kim Vân Kiều, Bảy Thông đóng vai Kim Trọng, cô Năm Thoàn vai Thúy Kiều”, rồi tôi ca lên. Khách nào đến chơi, ông nội cũng cho coi tôi “biểu diễn” tiết mục thú vị này.
Những người trong gia đình thường dạy tôi “ăn nói văn chương”. Năm tôi 4 tuổi, ông nội dạy, khi ai hỏi tôi: “Nữa lớn em làm gì?”, thì tôi trả lời: “Em học để nữa lớn em sẽ giúp nhơn quần xã hội”. Nghe tôi trả lời, ai cũng vò đầu tôi, khen tôi. Tôi nói mà không biết câu đó có ý nghĩa gì, chỉ biết rằng câu ấy hay. Ít nhất, những điều đó đã nằm trong tiềm thức của tôi và tôi đã thực hiện bằng cả cuộc đời của mình.
Từ nhỏ tôi đã thích tụng kinh. Má tôi không thích vì sợ tôi sau này sẽ đi tu. Có lần tôi cãi lời má tôi tụng kinh thì bị má la, má lấy tay xỉ vào đầu tôi. Tôi thuật lại chuyện với ông nội thì ông nội bảo: “Thôi, má không thích con làm việc đó thì con đừng làm nữa. Nhưng lần sau má xỉ đầu con thì con nói: Má ơi, má đừng xỉ đầu con, nữa lớn con u mê hết trí rồi đừng than, đừng khóc, đừng buồn, ăn năn đã muộn”.
Tôi thấy câu đó hay quá nên thuộc lòng, mong có dịp nói với má. Tôi đợi mấy tháng sau mà chưa thấy má xỉ đầu nên một hôm tôi cố chọc cho má mắng chơi bằng cách… tụng kinh lớn. Nghe tiếng tụng, má nói liền: “Ủa, sao con tụng kinh vậy?”. Tôi nói: “Dạ, con tưởng má đi vắng”. Má giận, lấy tay xỉ đầu tôi, nói: “Con khó dạy nghe, cứ làm má buồn hoài”. Tôi nói liền: “Má ơi, má đừng xỉ đầu con, nữa lớn con u mê hết trí rồi đừng than, đừng khóc, đừng buồn, ăn năn đã muộn”. Má ngạc nhiên lắm: “Ai dạy con câu đó vậy?”. Tôi nói: “Dạ ông nội dạy!”. Má ẵm tôi lên, nói: “Từ nay, má không xỉ trên đầu con nữa, con cũng đừng làm má buồn nữa nghe”.
Con có quyền lựa chọn
Những năm tháng đằng đẵng xa quê hương, nỗi nhớ quê hương, gia đình trong tôi khắc khoải không nguôi. Năm 1949, khi tôi sang Pháp, Thủy Ngọc còn chưa ra đời. Xa gia đình, tôi nhớ ba con da diết, nhớ hình ảnh Hải múa khi tôi đờn piano, rồi tôi ẵm con để trên đùi, chùi mồ hôi cho con, lấy phấn thoa lên cái trán đang nổi sẩy của Hải, vuốt vuốt lưng Hải.
Tôi nhớ Minh rất sợ con voi hay được người ta dẫn đi khi bán dầu cù là, tôi ẵm Minh lên cho nó rờ con voi, vỗ nhẹ lưng voi. Sau đó, hễ gặp voi là Minh gọi ngọng nghịu: “Ba ơi, voi xù là, voi xù là”. Sau đó, mọi người cùng kêu Minh là “Minh xù là”. Còn Thủy Tiên hễ khóc mà thấy tôi là cười ngay, trưa nào tôi cũng ngủ với Thủy Tiên, thỉnh thoảng con gái nhỏ lại quay qua rờ mặt ba. Ngày tôi sang Pháp, Thủy Tiên khóc suốt, mẹ mấy đứa con tôi phải lấy cái áo chưa giặt của tôi để gần Thủy Tiên thì cháu ngủ, không khóc nữa. Xa quê hương, tôi cố gắng hết sức lo lắng cho con về mặt vật chất, tinh thần trong khả năng có thể.
Tôi rất mang ơn mẹ của mấy đứa con tôi vì đã sanh cho tôi 4 đứa con và có con đã nối nghiệp âm nhạc của tôi.
Hoàn cảnh của tôi có vài điểm khá đặc biệt. Tôi xa quê hương khi con đầu mới 5 tuổi, không có nhiều thời gian gần gũi các con như nhiều cha mẹ khác. Tôi không hối hận vì điều đó vì đó chính là một lựa chọn của bản thân. Cũng vì xa cách con nhiều nên mỗi phút giây tôi được bên con đều là những phút giây hạnh phúc, quý báu và chỉ muốn bù đắp cho con.
Các con của tôi ban đầu thương mẹ nhiều hơn thương tôi, nhưng khi có điều kiện gần gũi tôi, được nhìn thấy cách tôi sống, làm việc, con rất yêu thương tôi. Nhưng tôi luôn dạy con công lao mang nặng đẻ đau của mẹ phải mang ơn suốt đời.
Có một kỷ niệm nhỏ với con gái Thủy Ngọc làm tôi rất xúc động. Khi Thủy Ngọc sang Pháp ở với ba, con đeo ba rất dữ, thần tượng ba và không thích đi đâu chơi với ai. Vì vậy, mùa hè năm con 20 tuổi, tôi sắp xếp cho con đi cắm trại, nhưng con nói con không quen, không chịu được kỷ luật, chỉ muốn ở một mình. Tôi phải xuống năn nỉ trưởng trại cho con gái tôi có riêng một cái lều và ban đầu đừng bắt nó làm gì hết. Tôi dỗ dành một lúc thì con gái cũng chịu đi trại. Khi đưa con đến trại rồi, tôi ra về. Tôi nhìn vào kiếng xe, thấy con nhìn theo tôi bằng ánh mắt thấy tội nghiệp lắm. Lòng tôi xốn xang lắm, chỉ muốn quay lại đưa con về nhà. Nhưng như vậy là coi như công cố gắng thuyết phục con tham gia trại trở thành vô ích. Tôi liền cho xe chạy thiệt mau. Sau đó, hôm nào tôi đến trại thăm con, con mừng lắm.
Năm 1961, khi con thứ nhứt của tôi là Trần Quang Hải qua Pháp, con nói muốn học violon. Lúc đầu, Hải thích nhạc phương Tây hơn nhạc dân tộc. Tôn trọng mong muốn của con, tôi ghi danh cho Hải học violon tại Viện Quốc tế âm nhạc Paris. Tôi cũng không bắt buộc Hải học đờn dân tộc hay ngồi nghe tôi đờn.
Học violon được hơn 1 năm, Hải bày tỏ mong muốn được đờn violon cho ông Y. Menuhin - nhạc sư violon lừng danh thế giới nghe để được ông phê bình tiếng đờn của mình. Ông Y. Menuhin vốn là bạn thân của tôi, tôi nói với ông: “Con trai tôi muốn đờn cho bạn nghe, để được nghe bạn nhận xét xem ở tuổi này mà đờn như vậy thì có thể tiến xa không. Con tôi mộng trở thành một giáo sư dạy đờn violon và đi biểu diễn khắp thế giới”.
Ông Y. Menuhin đồng ý và sau khi nghe Hải biểu diễn bằng cây đờn của mình, ông đưa cho Hải cây đờn thiệt tốt của ông và bảo Hải biểu diễn tiếp. Sau đó, ông nói: “Con là con của một người bạn nên thầy nói thiệt. Ở tuổi này mà đờn như vậy thì con có cố gắng học hết sức cũng chỉ có thể dạy đờn violon cho mấy trường nhỏ chớ không thể đờn biểu diễn độc tấu. Thầy lấy làm lạ là con có một người cha nổi danh thế giới về nhạc truyền thống, cha con lại biết biểu diễn nhiều loại đờn, sao con không học nhạc truyền thống Việt Nam ở cha mà đi học đờn violon làm gì?”.
Hải về nhà buồn một tuần, không đụng đến đờn violon. Sau đó, Hải chạy đến ôm đầu gối tôi và nói: “Con xin ba dạy con đờn tranh!”.
Tôi sẵn sàng dạy đờn cho con liền. Hải học rất mau, rất sáng tạo nhưng không thích học thuộc lòng bài bản cổ. Dạy đờn cho con, tôi khuyến khích sự sáng tạo, dạy một câu rao, khi nào đi khi nào dừng, nhưng con hãy có những sáng tạo riêng.
Người xưa có câu “Cha làm thầy, con bán sách” hay “Cha làm thợ rèn, con không có dao ăn trầu”, tôi may mắn khi có con nối nghiệp âm nhạc. Con tôi còn hăng hái đi tìm cái mới, hoàn thành những điều tôi chưa làm được. Tôi rất vui vì tôi có quan điểm “Con hơn cha là nhà có phước”. Nhưng điều quan trọng nhất là con biết thương, biết yêu âm nhạc dân tộc.
Tôi luôn dạy cho các con tiết kiệm, không phung phí từng đồng tiền cha mẹ cho. Tôi biết khi Hải sang Pháp học tú tài, thế nào con cũng gặp nhiều khó khăn. Để con không bị thất vọng, tôi cho con học tiếng Pháp, sau đó qua Anh học tiếng Anh. Tôi cho con tiền vé máy bay, tiền ăn ở, tiền đi xe buýt đi học. Hải rất khôn, tiền tôi cho đi xe buýt Hải dùng mua một chiếc xe đạp cũ, khi hết đi xe đạp này thì Hải bán đi và có một khoản tiền. Tôi rất vui vì con tôi biết tiết kiệm.
Cuộc sống một mình nơi đất khách quê người là môi trường để tôi rèn luyện khả năng tự chăm sóc bản thân, từ đi chợ, nấu ăn, giặt giũ, giữ gìn các vật dụng để dùng được lâu… Đó cũng là những điều tôi dạy con. Khi dạy Thủy Ngọc nấu ăn, tôi dạy con cách luộc bún sao cho ngon. Đầu tiên là cho bún vào nồi, để lửa lớn, khi nước sôi, nắp xoong kêu bập bập, tắt lửa liền, 3 phút sau, đổ bún ra, xả nước lạnh ngay thì bún sẽ săn lại. Nếu chưa ăn liền thì cho thêm chút dầu để bún không dính. Luộc bún là vậy. Hay tôi dạy con, khi kho thịt phải nhớ hớt bọt để nước thịt trong, không hôi mùi heo, mùi bò; ăn cái gì cũng phải cân bằng âm dương, mặn quá cho thêm chút đường, ngọt quá cho chút muối. Đó chỉ là những quy tắc, con có thể sáng tạo, tự tìm ra những bí quyết của riêng mình. Tôi hay nấu cho các con ăn. Thủy Ngọc nấu ăn cũng rất ngon.
Ngay cả đi chợ, tôi cũng dạy con đi thế nào cho hiệu quả. Bước vào chợ, phải nhìn bên này, nhìn bên kia, chỗ nào ít người thì mình đi trước, phải biết bên nào bán thịt, bên nào bán cá, bán rau.
Và quan trọng là phải biết loại thịt nào phù hợp với món ăn mình muốn nấu. Tất nhiên, nếu có tiền thì mua những loại thịt cá cao cấp, nhưng khi ít tiền thì vẫn có thể ăn ngon nếu biết lựa thịt cá loại rẻ và khéo léo chế biến. Vì tôi vốn nghèo nên tôi quan niệm chuyện ăn uống là phải rẻ và ngon.
Khi Thủy Ngọc học tiếng Pháp, tôi động viên con và chỉ cho con cách học những từ, những câu quan trọng. Nhờ đó mà con kiên trì học và thi đâu đậu đó.
Dạy con bằng thơ
Tôi tâm niệm phải dạy con bằng chính cách sống của mình chứ không chỉ bằng những lý thuyết suông, thương yêu con và cũng hết sức tôn trọng con, không đàn áp con. Những khi con có lỗi, không bao giờ tôi bảo con ngồi lại để nghe tôi la mắng mà tôi thường viết thơ để dạy con. Có bài dài đến 8, 9 trang. Má tôi ngày trước cũng không bao giờ đánh tôi mà chỉ giảng giải, cắt nghĩa một khi tôi có lỗi.
Hải nghiên cứu rất giỏi, khi Hải nắm được kỹ thuật hát đồng song thanh (kỹ thuật phát xuất từ Mông Cổ và Tuva, một người có thể hát hai giọng cùng lúc, một giọng trầm từ cổ họng kéo dài trên một cao độ suốt một hơi trong khi giọng thứ nhì được tạo bởi sự lựa chọn các bồi âm phía trên để tạo thành một giai điệu). Tôi luôn khuyên con khiêm tốn nên trong thơ gởi cho con, tôi cũng nhắc việc đó:
Ất Sửu đầu năm tuyết khắp nơi
Chúc xuân ba gởi nhắn đôi lời
Khiêm nhường nhắc trẻ từ bao thuở
Bền chí khuyên con đến suốt đời
Biểu diễn thành công bao chỗ đón
Trình bày kết quả lắm nơi mời
Con nhờ thiên phú tài âm nhạc
Thêm đức tài con sẽ rạng ngời.
(Viết đầu năm Ất Sửu 1985, trên máy bay từ Paris đi thành phố Nice, Pháp.)
Qua thơ, tôi tự nói với mình về mong mỏi con nối nghiệp cha và tinh thần lao động của mình:
Mai sau, ai giữ nghề âm nhạc?
Hiện tại, ai gìn nghiệp hát ca?
Trọn kiếp tơ tằm chưa dứt mối
Chữ nhàn an hưởng vẫn còn xa.
Tôi cũng chia sẻ với con quan niệm sống của mình:
Đường lợi không màng không bén mảng
Cửa quyền chẳng thích chẳng vào ra.
Tôi giải thích cho con hiểu tất cả những việc tôi làm không vì lợi, không vì danh, mà chỉ vì tình thương yêu âm nhạc, văn hóa Việt Nam.
Về làm thơ, tôi chỉ các con niêm luật, cách mở đầu câu chuyện (“khai môn kiến sơn” - mở cửa thấy núi) hay mượn cái này để nói cái khác. Thí dụ nói về tình thương thì mượn trăng gió. Các con cũng yêu thích thơ ca, cha con thường họa thơ với nhau rất thú vị. Thơ của con trật chỗ nào thì tôi sửa ngay.
Những bài thơ xướng họa với con là nơi tôi gởi gắm đến con những lời nhắn nhủ về cách sống ở đời, hãy lạc quan, dũng cảm trước khó khăn, hãy biết sống hết mình vì chữ tình cao đẹp. Tôi tập hợp các bài thơ của con để làm kỷ niệm.
Gia tài cho con là chữ “tâm”
Các con tôi đờn rất giỏi, khi dạy học, các con thường lấy học phí khá cao, còn tôi thì dạy không lấy tiền. Tôi dạy các con rằng, người xưa học thuốc, ra làm thuốc cứu giúp người, không đòi bao nhiêu tiền mà tùy vào bệnh nhân muốn trả bao nhiêu thì trả. Chuyện đờn cũng vậy, trời cho mình ngón đờn thì mình phải chia sớt với những người chưa biết đờn. Nhiều học trò học đờn là để tìm hiểu thêm, để chơi thì đừng lấy học phí cao quá, nếu định dùng tiếng đờn để làm cái nghề sống được thì mình mới có thể lấy tiền nhiều.
Tôi thường bảo con: “Trong đời, ba làm về âm nhạc, không vì để cho có danh, để cho có lợi mà vì tình thương âm nhạc, thương người đi học nhạc. Tiền có thể mua được nhiều điều nhưng có một điều tiền không mua được, đó chính là tình thương. Mà muốn có tình thương thì phải bỏ tình thương ra”.
Trong cuộc sống, tình thương là cho chứ không phải nhận. Và khi cho thì tự nhiên sẽ được trả. Hiện nay, tôi thấy một số thanh niên sống ích kỷ, chỉ nghĩ đến cái lợi của bản thân, đòi hỏi nhiều hơn là cho đi. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến hiện tượng xã hội này như: cha mẹ không nghiêm khắc với con, chiều chuộng con thái quá, cha mẹ dạy con chưa đúng cách, sự biến chuyển của xã hội khi nhiều người chỉ biết nghĩ ăn sao cho ngon, mặc sao cho đẹp, chơi sao cho vui…
Từ khi còn nhỏ, má và cô tôi đã dạy tôi rằng giá trị vật chất bên ngoài không quan trọng bằng tình cảm bên trong. Tôi cũng đã nhìn thấy má và cô tôi tham gia Thanh niên cách mạng đồng chí hội, hy sinh bản thân cho đất nước.
Di sản tôi để lại cho con, trước hết có lẽ là gen thông minh, trí nhớ nhiều, mỗi con có một tài riêng (Trần Quang Hải giỏi đờn, Trần Quang Minh vẽ và đờn nhạc Tây, Thủy Tiên thuật chuyện hay, Thủy Ngọc nấu ăn ngon và tháo vát trong mọi công việc) và truyền lại các con chữ “tâm”. Đến nay, tôi thấy các con tôi trong cách xử đời thường để tâm thương yêu, giúp đỡ người khuyết tật và đau khổ.
CÒN TIẾP....